LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ có 5 hội:
HỘI THỨ NHẤT
TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI
( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )
Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA
CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi
PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.
HỘI THỨ HAI
THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI
( SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)
Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA
HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm
chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do
đức Phật Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.
HỘI THỨ BA
QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI
(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)
Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM
HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới
hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách
tự-tại.
HỘI THỨ TƯ
KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI
(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)
Đây là
“KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư
Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với
kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.
Chư Kim-Cang Mật-Tích
cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
HỘI THỨ NĂM
VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI
(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)
Đây là
“VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh
chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải
là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.
Năm hội trên tượng trưng
cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi
chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH
KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.
(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại
trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.
Đây là Hóa Thân Phật
dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong
vị lai.
ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của
Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp
giới, nên gọi là MA HA.
BẠCH (Trắng) là “TƯỚNG” của
Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA.
TÁN CÁI (Tàng
Lọng) là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có
khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG
TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ CŨNG CHỨNG
ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.
CỨU CÁNH KIÊN CỐ là THỦ LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH, định này
là VUA trong các định.
THẦN là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.
CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH,
tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN) LƯU LỘ RA NGŨ-TRÍ. CHO NÊN, GỌI LÀ “NGŨ-TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.
NGŨ TRÍ
NGŨ
TRÍ là năm loại trí được trình bày theo Mật giáo. Năm trí này miêu tả tất cả những
khía cạnh của Tuyệt đối, của Chân như mà con người có thể thực hiện được khi đã
chuyển hoá thân tâm. Thân tâm gọi cụ thể ở đây là Ngũ uẩn, năm nhóm với năm cấu
uế, phiền não phụ thuộc là tham dục, sân,
Si, hoặc vô minh, mạn và ganh ghét. Năm trí bao gồm:
1) PHÁP GIỚI TRÍ
2) ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ
3) BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ
4) DIỆU QUÁN SÁT TRÍ
5) THÀNH SỞ TÁC TRÍ
1. PHÁP GIỚI TRÍ là
trí siêu việt của Pháp giới, trí tột cùng. Căn cơ của trí này là Sắc uẩn cùng với
Vô minh, và thuộc về Thân trong ba động cơ tạo nghiệp là Thân, khẩu, ý. Trong Mạn-đà-la
thì Pháp giới trí thuộc về Đại Nhật
Phật, nằm ở trung tâm.
多他伽跢俱囉耶
TATHĀGATA KULĀYA
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na
2. ĐẠI
VIÊN CẢNH TRÍ là trí như một tấm gương lớn, trí giúp người
nhìn vạn vật với một tâm thức Vô ngã, không muốn chiếm đoạt, phân biệt đúng
sai, chấp nhận vạn vật với mỗi sắc thể riêng của nó. Trí này được ví như một tấm
gương vì một hạt bụi nó cũng không bỏ qua nhưng nếu hạt bụi này bay đi, gương
không lưu lại dấu vết gì. Nguồn gốc của trí này là Thức uẩn cùng với tâm trạng
sân hận, thuộc về ý trong ba cửa tạo nghiệp. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc
về Phật Bất Động, nằm ở phương Đông.
南無跋闍囉俱囉耶
NAMO VAJRA KULĀYA
Đức Phật Dược Sư
3. BÌNH
ĐẲNG TÁNH TRÍ là trí giúp con người thấy rõ sự bình đẳng
giữa mình và chúng sinh. Tinh thần Từ bi của đạo Phật cũng xuất phát từ trí này
chứ không phải xuất phát từ ý nghĩ "tội nghiệp, đáng thương" – cách
nhìn của một người "trên cơ" nhìn xuống. Người Phật tử phát triển Bồ-đề
tâm, phát triển lòng từ bi vì đã nhận ra chính mình trong tất cả hoàn cảnh, tất
cả chúng sinh. Nguồn gốc của trí này là Thụ uẩn cùng với tâm trạng Kiêu mạn.
Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật
Bảo Sanh, vị trí ở phương Nam.
南無摩尼俱囉耶
NAMO MANI KULĀYA
Đức Phật Bảo Sanh
4. DIỆU
QUÁN SÁT TRÍ là trí giúp
người ta biến chuyển khả năng phân biệt, thị phi bằng trí thức bình thường
thành trí huệ Bát-nhã, tuỳ cơ ứng biến, làm việc đúng thời điểm và địa điểm,
không cần "dụng công." Nguồn gốc của trí này là Tưởng uẩn cùng với
tâm trạng Tham dục. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật A-di-đà, giáo chủ phương Tây.
51. NAM-MÔ BÁT ĐẦU MA CU NA DA
南無般頭摩俱囉耶
NAMO PADMA KULĀYA
5. THÀNH
SỞ TÁC TRÍ là trí giúp người hoàn thành tất cả mọi việc mà không tạo Nghiệp, đó là
hành động Vô vi, xuất phát từ một tâm đã chứng ngộ được Vô ngã của chính bản
thân và các Pháp Hữu vi. Nguồn gốc của trí này là Hành uẩn cùng với tâm trạng
ganh ghét. Trong Mạn-đà-la thì trí này thuộc về Phật Bất Không Thành Tựu, giáo chủ phương Bắc.
373. TẦN ĐÀ RA TẦN ĐÀ RA
頻陀囉頻陀囉
VIDARA VIDARA
Đức Phật Bất Không Thành Tựu
Cách
trình bày như trên thuộc về truyền thống của Kim cương thừa Tây Tạng.
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
ÐỆ NHỨT
Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.
Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng-già nẩm.
Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.
Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.
Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.
Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.
Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam-mô bạt ra ha ma ni.
Nam-mô nhơn đà ra da.
Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam-mô bà già bà đế.
Na ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.
Nam-mô bát đầu ma cu na da.
Nam-mô bạt xà ra cu ra da.
Nam-mô ma ni cu ra da.
Nam-mô già xà cu ra gia.
Nam-mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế.
Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.
Nam-mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NHỊ
Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TAM
Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TỨ
Bà già phạm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam-mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NGŨ
Ðột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác điệc tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.
Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
The Shurangama Sutra Contents:
HỘI THỨ NHẤT
TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI
( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )
Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.
南無薩怛他
NAMO SARVARTHA
2. TÔ GIÀ ĐA DA
蘇伽多耶
SUGATAYA
3. A RA HA ĐẾ
阿羅訶帝
ARHATE
三藐三菩陀寫
SAMYAK SAMBUDDDHAYA
南無薩怛他
NAMO SARVARTHA
佛陀俱胝瑟尼釤
BUDDHĀ KOTI SNĪSĀM
南無薩婆
NAMO SARVA
勃陀勃地
BUDDHĀ BODHI
14. TĂNG-GIÀ NẨM
僧伽喃
SANGHANĀM
15. NAM-MÔ LÔ KÊ A-LA-HÁN ĐA NẨM
南無盧雞阿羅漢跢喃
NAMO LOKE ARHANTĀNĀM
南無蘇盧多波那喃
NAMO SROTAPATTĀNĀM
17. NAM-MÔ TA YẾT RỊ ĐÀ GIÀ DI NẨM
南無娑羯唎陀伽彌喃
NAMO SUKRTAGĀMINĀM (NAMO ANĀGAMĪNAM)
18. NAM-MÔ LÔ KÊ TAM-MIỆU GIÀ ĐA NẨM
南無盧雞三藐伽跢喃
NAMO LOKE SAMYA DGATANĀM
三藐伽波囉
SAMYA KSRA
20. ĐỂ BA ĐA NA NẨM
底波多那喃
TIPATTĀNĀM
南無提婆離瑟赧
NAMO DEVARSINAM
22. NAM-MÔ TẤT ĐÀ DA
南無悉陀耶
NAMO SIDDHĀYA
23. TỲ ĐỊA DA
毗地耶
VIDAYĀ
24. ĐÀ RA LY SẮT NỎA
陀囉離瑟赧
DHARĀRSINAM
25. XÁ BA NOA
舍波奴
'SĀPANU
26. YẾT RA HA
揭囉訶
GRAHA
娑訶娑囉摩他喃
SAHA SAMARTHĀNĀM
南無跋囉訶摩泥
NAMO BRAHMANE
南無因陀囉耶
NAMO INDRYA
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN
Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu tam-bồ-đà-tỏa. Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.
Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng-già nẩm.
Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.
Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.
Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.
Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.
Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam-mô bạt ra ha ma ni.
Nam-mô nhơn đà ra da.
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
31. LÔ ĐÀ RA DA
盧陀囉耶
RUDRAYA
32. Ô MA BÁT ĐẾ
烏摩般帝
33. TA HÊ DẠ DA
娑醯夜耶
SAHEYĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
35. NA RA DẢ
那囉野
NARAYA
36. NOA DA
拏耶
NAYA
37. BÀN-GIÁ MA-HA TAM MỘ ĐÀ RA
槃遮摩訶三慕陀囉
PAMCA MAHĀ MUDRA
南無悉羯唎多耶
NAMO SKRTĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
40. MA HA CA RA DA
摩訶迦羅耶
MAHĀ KĀLĀYA
地唎般剌那
TRIPURA NAGARA
42. GIÀ RA TỲ ĐÀ RA
43. BA NOA CA RA DA
波拏迦囉耶
KĀLĀYA
44. A ĐỊA MỤC ĐẾ
阿地目帝
ADHIMUKTO
45. THI MA XÁ NA NÊ
尸摩舍那泥
KAGMASĀNA NI
46. BÀ TẤT NÊ
婆悉泥
BASINI
摩怛唎伽拏
MATRGANA
南無悉羯唎多耶
NAMO SKRTĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
多他伽跢俱囉耶
TATHĀGATA KULĀYA
Đức Phật Tỳ Lô Giá Na
51. NAM-MÔ BÁT ĐẦU MA CU NA DA
南無般頭摩俱囉耶
NAMO PADMA KULĀYA
南無跋闍囉俱囉耶
NAMO VAJRA KULĀYA
Đức Phật Dược Sư
南無摩尼俱囉耶
NAMO MANI KULĀYA
Đức Phật Bảo Sanh
南無伽闍俱囉耶
NAMO GARJA KULĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
56. ĐẾ RỊ TRÀ
帝唎茶
DRDHA
57. DU RA TÂY NA
輸囉西那
'SURASENA
波囉訶囉拏囉闍耶
PRAHARANA RĀJĀYA
59. ĐA THA GIÀ ĐA DA
跢他伽多耶
TATHĀGATAYA
南無婆伽婆帝
NAMO BAGHAVATE
南無阿彌多婆耶
NAMO AMITĀBHĀYA
62. ĐA THA DÀ ĐA DA
跢他伽多耶
TATHĀGATĀYA
63. A RA HA ĐẾ
阿囉訶帝
ARHATE
三藐三菩陀耶
SAMYA KSAMBUDDHĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
66. A SÔ BỆ DA
阿芻鞞耶
AKSOBHYA
67. ĐA THA GIÀ ĐA DA
跢他伽多耶
TATHĀGATĀYA
68. A RA HA ĐẾ
阿囉訶帝
ARHATE
三藐三菩陀耶
SAMYA KSAMBUDDHĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
71. BỆ SA XÀ DA
鞞沙闍耶
BHAISAIJYA
俱盧吠柱唎耶
GURU VAITŪRYA
般囉婆囉闍耶
PRABHA RĀJĀYA
74. ĐA THA GIÀ ĐA DA
跢他伽多耶
TATHĀGATĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
76. TAM BỔ SƯ BÍ ĐA
三補師毖多
薩憐捺囉剌闍耶
SĀLENDRA RAJĀYA
78. ĐA THA GIÀ ĐA DA
跢他伽多耶
TATHĀGATĀYA
79. A RA HA ĐẾ
阿囉訶帝
ARHATE
三藐三菩陀耶
SAMYA KSAMBUDDHĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
舍雞野母那曳
SAKYAMUNAYE
83. ĐA THA GIÀ ĐA DA
跢他伽多耶
TATHĀGATĀYA
84. A RA HA ĐẾ
阿囉訶帝
ARHATE
三藐三菩陀耶
SAMYA KSAMBUDDHĀYA
南無婆伽婆帝
NAMO BHAGAVATE
剌怛那雞都囉闍耶
RATNA KETU RAJĀYA
88. ĐA THA GIÀ ĐA DA
跢他伽多耶
TATHĀGATĀYA
89. A RA HA ĐẾ
阿囉訶帝
ARHATE
三藐三菩陀耶
SAMYA KSAMBUDDHĀYA
91. ĐẾ BIỀU
帝瓢
EBHYO
南無薩羯唎多
NAMO SKRTĀYA
翳曇婆伽婆多
IMĀM BHAGAVATA
94. TÁT ĐÁC THA GIÀ ĐÔ SẮC NI SAM
薩怛他伽都瑟尼釤
STATHĀGATO SNĪSĀM
薩怛多般怛藍
STĀTAPATRAM
南無阿婆囉視耽
NAMO APARĀJITĀM
97. BÁC RA ĐẾ
般囉帝
PRAT
98. DƯƠNG KỲ RA
揚岐囉
YUDGIRAM
99. TÁT RA BÀ
薩囉婆
SARVA
100. BỘ ĐA YẾT RA HA
部多羯囉訶
BHŪTA GRAHA
101. NI YẾT RA HA
尼羯囉訶
NIGRAHĀ
102. YẾT CA RA HA NI
羯迦囉訶尼
YACARA KARĪ
103. BẠC RA BÍ ĐỊA DA
跋囉毖地耶
PARAVIDYĀ
104. SẤT ĐÀ NỂ
叱陀你
CCHADANA
105. A CA RA
阿迦囉
ĀKALA
106. MẬT RỊ TRỤ
密唎柱
MRTYU
107. BÁT RỊ ĐÁT RA DA
般唎怛囉耶
PRA'SAMANA
108. NẢNH YẾT RỊ
儜揭唎
KARĪ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
Ngũ-Đại Tâm Chú
109. TÁT RA BÀ
薩囉婆
SARVA
110. BÀN ĐÀ NA
槃陀那
BANDHANA
111. MỤC XOA NI
目叉尼
MUKSANA
112. TÁT RA BÀ
薩囉婆
SARVA
113. ĐỘT SẮC TRA
突瑟吒
DUSTHA
114. ĐỘT TẤT PHẠP
突悉乏
DUSVA
115. BÁT NA NỂ
般那你
PNANI
116. PHẠT RA NI
伐囉尼
VARANĪM
117. GIẢ ĐÔ RA
赭都囉
CATURA
118. THẤT ĐẾ NẪM
失帝南
SITINAM
119. YẾT RA HA
羯囉訶
GRAHĀ
120. TA HA TÁT RA NHÃ XÀ
娑訶薩囉若闍
SAHA STRĀNAM
毗多崩娑那羯唎
VIDHVAM SANAKARĪ
阿瑟吒冰舍帝南
ASTHAVIM SATINĀM
那叉剎怛囉若闍
NAKSATRANĀM
波囉薩陀那羯唎
PRASĀDANAKARĪ
125. A SẮC TRA NẪM
阿瑟吒南
ASTHANĀM
摩訶羯囉訶若闍
MAHĀ GRAHANĀM
毗多崩薩那羯唎
VIDHVAM SANAKARI
128. TÁT BÀ XÁ ĐÔ LÔ
薩婆舍都嚧
SARVA 'SATRU
129. NỂ BÀ RA NHÃ XÀ
你婆囉若闍
NIVĀRANĪM
130. HÔ LAM ĐỘT TẤT PHẠP
呼藍突悉乏
GURĀM DRASVAPNANĀṂ
131. NAN GIÁ NA XÁ NI
難遮那舍尼
CANĀ ' SARNI
132. BÍ SA XÁ
毖沙舍
VISA
133. TẤT ĐÁC RA
悉怛囉
'SARAPRA
134. A KIẾT NI
阿吉尼
AGṆI
135. Ô ĐÀ CA RA NHÃ XÀ
烏陀迦囉若闍
UDAKA TRANIM
阿般囉視多具囉
APARĀJITA GURĀ
摩訶般囉戰持
MAHĀ CANA PRACANNI
138. MA HA ĐIỆP ĐA
摩訶疊多
MAHĀ DĪPTĀM
139. MA HA ĐẾ XÀ
摩訶帝闍
MAHĀ TEJAM
摩訶稅多闍婆囉
MAHĀ SUETĀM JVALA
摩訶跋囉槃陀囉
MAHĀ VALĀ PANDARA
142. BÀ TẤT NỂ
婆悉你
VĀSIRNĪ
143. A RỊ DA ĐA RA
阿唎耶多囉
ARYA TĀRĀ
144. TỲ RỊ CU TRI
毗唎俱知
BHRKUTI
145. THỆ BÀ TỲ XÀ DA
誓婆毗闍耶
JIVA CEVAJAM
146. BẠC XÀ RA MA LỄ ĐỂ
跋闍囉摩禮底
VAJRA MALCETI
147. TỲ XÁ LÔ ĐA
毗舍嚧多
VISTRŪTAM
148. BỘT ĐẰNG DÕNG CA
勃騰罔迦
PADMA YONICA
149. BẠT XÀ RA CHẾ HẮT NA A GIÁ
跋闍囉制喝那阿遮
VAJRA JIHVA CAH
150. MA RA CHẾ BÀ
摩囉制婆
MALA CEVĀ
151. BÁC RA CHẤT ĐA
般囉質多
PARĀJITĀM
152. BẠC XÀ RA THIỆN TRÌ
跋闍囉擅持
VAJRA DAṆḌI
153. TỲ XÁ RA GIÁ
毗舍囉遮
VI'SALACA
154. PHIẾN ĐA XÁ
扇多舍
'SANTĀ
155. BỆ ĐỀ BÀ
鞞提婆
VAIDE
156. BỔ THỊ ĐA
補視多
HAPUJITĀH
157. TÔ MA LÔ BA
蘇摩嚧波
SOMARUPĀ
158. MA HA THUẾ ĐA
摩訶稅多
MAHĀ SUETĀṂ
159. A RỊ DA ĐA RA
阿唎耶多囉
ARYA TĀRĀ
NHẬT QUANG THIÊN TỬ BẢO HỘ
160. MA HA BÀ RA A BÁC RA
摩訶婆囉阿般囉
MAHĀ VALĀH APARA
161. BẠT XÀ RA THƯƠNG YẾT RA CHẾ BÀ
跋闍囉商羯囉制婆
VAJRA 'SAKĀLĀ CEVAH
162. BẠT XÀ RA CU MA RỊ
跋闍囉俱摩唎
VAJRA KAUMĀRIH
163. CU LAM ĐÀ RỊ
俱藍陀唎
KULANDHARĪ
跋闍囉喝薩多遮
VAJRA HASTHĀCA
165. TỲ ĐỊA GIA
毗地耶
VIDYĀ
166. KIỀN GIÁ NA
乾遮那
KĀMCANĀ
167. MA RỊ CA
摩唎迦
MĀLIKAH
168. KHUẤT TÔ MẪU
啒蘇母
KUSUM
169. BÀ YẾT RA ĐÁ NA
婆羯囉跢那
BHARATANA
170. BỆ LÔ GIÁ NA
鞞嚧遮那
VAIROCANA
171. CU RỊ DA
俱唎耶
KUDĀ
172. DẠ RA THỐ
夜囉菟
RIGHO
173. SẮC NI SAM
瑟尼釤
SNISAM
174. TỲ CHIẾT LAM BÀ MA NI GIÁ
毗折藍婆摩尼遮
VIJRMBHA MĀṆACA
175. BẠT XÀ RA CA NA CA BA RA BÀ
跋闍囉迦那迦波囉婆
VAJRA KANAKA PRABHA
176. LÔ XÀ NA
嚧闍那
LOCANAH
跋闍囉頓稚遮
VAJRA TUṆDĪCA
178. THUẾ ĐA GIÁ
稅多遮
SUETA
179. CA MA RA
迦摩囉
CAKA MALA
180. SÁT XA THI
剎奢尸
KSA 'SASI
181. BA RA BÀ
波囉婆
PRABHĀ
182. Ế ĐẾ DI ĐẾ
翳帝夷帝
ITE GATE
183. MẪU ĐÀ RA
母陀囉
MUDRA
184. YẾT NOA
羯拏
GAṆAH
185. TA BỆ RA SÁM
娑鞞囉懺
SARVE RAKSAM
186. QUẬT PHẠM ĐÔ
掘梵都
KURDHVANTU
187. ẤN THỐ NA MẠ MẠ TỎA
印兔那麼麼寫
MAMA INSONA MAMASYA
HỘI THỨ HAI
THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI
(SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)
Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.
188. Ô HỒNG
烏 𤙖
ŌM
189. RỊ SẮT YẾT NOA
唎瑟揭拏
JHASIGANA
190. BÁC LẶC XÁ TẤT ĐA
般剌舍悉多
PRA'SASTA
191. TÁT ĐÁT THA
薩怛他
TATHA
192. GIÀ ĐÔ SẮC NI SAM
伽都瑟尼釤
GATO SNĪSĀM
193. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG
虎 𤙖 都 嚧 雍
HŪM BHRŪM
194. CHIÊM BÀ NA
瞻婆那
JAMBHANA
195. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG
虎 𤙖 都 嚧 雍
HŪM BHRŪM
196. TẤT ĐAM BÀ NA
悉耽婆那
STAMBHANA
197. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG
虎 𤙖 都 嚧 雍
HŪM BHRŪM
198. BA RA SẮC ĐỊA DA
波囉瑟地耶
PARAVIDYA
199. TAM BÁC XÁ
三般叉
SAMBHA
200. NOA YẾT RA
拏羯囉
KSANAKARA
201. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG
虎 𤙖 都 嚧 雍
HŪM BHRŪM
202. TÁT BÀ DƯỢC XOA
薩婆藥叉
SARVA YAKSA
203. HẮT RA SÁT TA
喝囉剎娑
RĀKSASA
204. YẾT RA HA NHÃ XÀ
揭囉訶若闍
GRAHANAṂ
205. TỲ ĐẰNG BĂNG TÁT NA YẾT RA
毗騰崩薩那羯囉
VIDHVAM SANAKARA
206. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG
虎 𤙖 都 嚧 雍
HŪM BHRŪM
207. GIẢ ĐÔ RA
者都囉
CATURĀ
208. THI ĐỂ NẪM
尸底南
'SITINĀM
209. YẾT RA HA
揭囉訶
GRAHA
210. TA HA TÁT RA NẪM
娑訶薩囉南
SAHĀ STRĀNAM
毗騰崩薩那囉
VIDHVAM SANAKARA
212. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG
虎 𤙖 都 嚧 雍
HŪM BHRŪM
213. RA XOA
囉叉
RAKSA
214. BÀ GIÀ PHẠM
婆伽梵
BHAGAVAM
215. TÁT ĐÁT THA
薩怛他
STATHĀ
216. GIÀ ĐÔ SẮC NI SAM
伽都瑟尼釤
GATO SNĪSA
217. BA RA ĐIỂM
波囉點
PRATYU
218. XÀ KIẾT RỊ
闍吉唎
NGIRE
219. MA HA TA HA TÁT RA
摩訶娑訶薩囉
MAHĀ SAHA STRĀ
220. BỘT THỌ TA HA TÁT RA
勃樹娑訶薩囉
BHUJE SAHA STRA
221. THẤT RỊ SA
室唎沙
'SIRSA
222. CU TRI TA HA TÁT NÊ
俱知娑訶薩泥
KOTI SAHA STRA
223. ĐẾ LỆ A TỆ ĐỀ THỊ BÀ RỊ ĐA
帝隸阿弊提視婆唎多
NETRE ASIDYA JVALITA
224. TRA TRA ANH CA
吒吒甖迦
NATANAKA
摩訶跋闍嚧陀囉
MAHĀ VAJRO DARA
226. ĐẾ RỊ BỒ BÀ NA
帝唎菩婆那
TRBHUVANA
227. MAN TRÀ NA
曼茶囉
MANDALA
228. Ô HỒNG
烏 𤙖
ŌM!
229. TA TẤT ĐẾ
娑悉帝
SVASTIR
230. BẠC BÀ ĐÔ
薄婆都
BHAVATU
231. MẠ MẠ
麼麼
MAMA
232. ẤN THỐ NA MẠ MẠ TỎA
印兔那麼麼寫
INSONA MAMĀ SYĀ
Giác giả từ bi nhiếp hữu tình
Thánh hiền thiết giáo hóa ngoan minh
Thế Tôn chủng tộc Phật bảo ấn
Đăng đăng hỗ chiếu tâm truyền tâm.
覺者慈悲攝有情
聖賢設教化頑冥
世尊種族佛寶印
燈燈互照心傳心
HỘI THỨ BA
QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI
(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)
Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách tự-tại.
233. RA XÀ BÀ DẠ
囉闍婆夜
RĀJABHAYA
234. CHỦ RA BẠT DẠ
主囉跋夜
CORABHAYA
235. A KỲ NI BÀ DẠ
阿祇尼婆夜
AGNIBHAYA
236. Ô ĐÀ CA BÀ DẠ
烏陀迦婆夜
UDAKABHAYA
237. TỲ XA BÀ DẠ
毗沙婆夜
VISABHAYA
238. XÁ TÁT ĐA RA BÀ DẠ
舍薩多囉婆夜
'SASTRABHAYA
婆囉斫羯囉婆夜
PARACAKRABHAYA
240. ĐỘT SẮC XOA BÀ DẠ
突瑟叉婆夜
DRAKSABHAYA
241. A XÁ NỂ BÀ DẠ
阿舍你婆夜
A'SATIBHAYA
242. A CA RA
阿迦囉
AKĀRA
243. MẬT RỊ TRỤ BÀ DẠ
密唎柱婆夜
MRTYU BHAYA
244. ĐÀ RA NI BỘ DI KIẾM
陀囉尼部彌劍
DHARANĪ BHUMIKAM
245. BA GIÀ BA ĐÀ BÀ DẠ
波伽波陀婆夜
PA YAPADA BHAYA
246. Ô RA CA BÀ ĐA BÀ DẠ
烏囉迦婆多婆夜
URKĀPĀTA BHAYA
剌闍壇茶婆夜
RAJADANDA BHAYA
248. NA GIÀ BÀ DẠ
那伽婆夜
NAGA BHAYA
249. TỲ ĐIỀU ĐÁT BÀ DẠ
毗條怛婆夜
VIDYU BHAYA
250. TÔ BA RA NOA BÀ DẠ
蘇波囉拏婆夜
SUPARNA BHAYA
251. DƯỢC XOA YẾT RA HA
藥叉揭囉訶
YAKSA GRAHĀ
252. RA XOA TƯ YẾT RA HA
囉叉私揭囉訶
RAKSASA GRAHĀ
畢唎多揭囉訶
PRETA GRAHĀ
254. TỲ XÁ GIÁ YẾT RA HA
毗舍遮揭囉訶
PI'SACA GRAHĀ
255. BỘ ĐA YẾT RA HA
部多揭囉訶
BHUTA GRAHĀ
鳩槃茶揭囉訶
KUMBHANDA GRAHĀ
257. BỔ ĐƠN NA YẾT RA HA
補丹那揭囉訶
PUTĀNA GRAHĀ
258. CA TRA BỔ ĐƠN NA YẾT RA HA
迦吒補丹那揭囉訶
KATA PUTANA GRAHĀ
悉乾度揭囉訶
SKANDA GRAHĀ
阿播悉摩囉揭囉訶
APASMARA GRAHĀ
烏檀摩陀揭囉訶
UMADĀ GRAHĀ
262. XA DẠ YẾT RA HA
車夜揭囉訶
CCHĀYĀ GRAHĀ
醯唎婆帝揭囉訶
REVATI GRAHĀ
264. XÃ ĐA HA RỊ NẨM
社多訶唎南
ŪJĀ HĀRINYĀ
265. YẾT BÀ HA RỊ NẨM
揭婆訶唎南
GARBHĀ HĀRINYĀ
266. LÔ ĐỊA RA HA RỊ NẨM
嚧地囉訶唎南
RUDHIRĀ HĀRINYĀ
267. MANG TA HA RỊ NẨM
忙娑訶唎南
MAMSĀ HĀRINYĀ
268. MÊ ĐÀ HA RỊ NẨM
謎陀訶唎南
MEDĀ HĀRINYĀ
269. MA XÀ HA RỊ NẨM
摩闍訶唎南
MAJJA HĀRINYĀ
270. XÀ ĐA HA RỊ NỮ
闍多訶唎女
JĀTĀ HĀRINYĀ
271. THỊ TỶ ĐA HA RỊ NẨM
視比多訶唎南
JIVITĀ HĀRINYĀ
272. TỲ ĐA HA RỊ NẨM
毗多訶唎南
VITA HĀRINYĀ
273. BÀ ĐA HA RỊ NẨM
婆多訶唎南
VĀNTĀ HĀRINYĀ
274. A DU GIÁ HA RỊ NỮ
阿輸遮訶唎女
A'SUCYĀ HĀRINYĀ
275. CHẤT ĐA HA RỊ NỮ
質多訶唎女
CINCA HĀRINYĀ
276. ĐẾ SAM TÁT BỆ SAM
帝釤薩鞞釤
TESĀM SARVESĀM
277. TÁT BÀ YẾT RA HA NẨM
薩婆揭囉訶南
SARVA GRAHĀNAM
278. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
279. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
Đây là LIÊN HOA BỘ ở Phương Tây, do đức Phật A Di Đà là Bộ chủ.
280. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
281. BA RỊ BẠT RA GIẢ CA
波唎跋囉者迦
PARIBRĀJAKA
282. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
Tụng câu chú nầy thì SẮC TÂM BẤT NHỊ.
KRTAM
TAM QUY-Y
283. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
284. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
285. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
286. TRÀ DIỄN NI
茶演尼
DĀKINĪ
287. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
288. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
289. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
290. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
摩訶般輸般怛夜
MAHĀ PA'SUPATI
292. LÔ ĐÀ RA
嚧陀囉
RUDRA
293. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
294. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
295. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
296. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
297. NA RA DẠ NOA
那囉夜拏
NARAYANA
298. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
299. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
300. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
301. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
怛埵伽嚧茶西
DHARDAM YALO TRATI
ĐẠI BÀNG KIM SÍ DIỂU
303. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
304. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
305. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
306. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
307. MA-HA CA RA
摩訶迦囉
MAHĀ KALA
Trì tụng câu chú nầy, thì thành tựu TÂM ĐẠI BI, tức là viên mãn 42 THỦ NHÃN ẤN PHÁP.
308. MA ĐÁT RỊ GIÀ NOA
摩怛唎伽拏
MATRGANA
309. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
310. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
311. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
312. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
313. CA BA RỊ CA
迦波唎迦
KĀPĀLIKA
Tụng câu chú nầy, thì khiến QUỶ-THẦN lìa NGŨ DỤC tu THẬP THIỆN.
314. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
315. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
317. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
318. XÀ DẠ YẾT RA
闍夜羯囉
JAYAKARA
Tụng câu chú nầy, thì nhận ra TÁNH THỂ BẤT TĂNG BẤT GIẢM.
319. MA ĐỘ YẾT RA
摩度羯囉
MADHU KARA
Tụng câu chú nầy, thì PHẬT TRUYỀN BẢO ẤN, nghĩa là TỨC TÂM TỨC PHẬT.
薩婆囉他娑達那
SARVARTHA SĀDHANA
Tụng câu chú nầy, thì TỰ TẠI làm lợi ích cho tấc cả HỮU TÌNH.
321. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
322. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
323. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
324. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
325. GIẢ ĐỐT RA
赭咄囉
CATUR
THẦN NỮ A TU LA tụng câu chú nầy, để CỨU ĐỘ chúng sanh ở TA BÀ.
326. BÀ KỲ NỂ
婆耆你
BHAGINI
Tụng câu chú nầy, thì cải TÀ quy CHÁNH, nghiêm trì GIỚI LUẬT.
327. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
328. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
329. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
330. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
毗唎羊訖唎知
SIRIYAN GIRITI
Tụng câu chú nầy, thì tấc cả việc THIỆN mau thành tựu.
332. NAN ĐÀ KÊ SA RA
難陀雞沙囉
NANDIKESVARA
333. DÀ NOA BÁC ĐẾ
伽拏般帝
GANA PATI
Tụng câu chú nầy, thì đồng hạnh với Bồ-tát Văn-Thù-Sư-Lợi.
334. SÁCH HÊ DẠ
索醯夜
SAHEYAM
Tụng câu chú nầy, thì ĐẮC VÔ SỞ ĐẮC.
335. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
336. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
337. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
338. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
那揭那舍囉婆拏
Tụng câu chú nầy, thì NHIẾP PHỤC tất cả NGOẠI ĐẠO làm quyến thuộc của PHẬT THÍCH CA.
340. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
341. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
342. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
343. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
344. A-LA-HÁN
阿羅漢
ARHANTA
Hàng A LA HÁN tụng câu chú nầy, thì độ được chúng LA SÁT VƯƠNG.
345. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
346. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
347. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
348. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
349. TỲ ĐA RA GIÀ
毗多囉伽
VINARĀGA
Tụng câu chú nầy, thì Bồ-tát QUÁN THẾ ÂM hiện thân Đại Lực Thần Vương.
1. Hóa độ Thần Vương.
2. Bảo hộ Người Tu.
350. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
351. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
352. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
353. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
354. BẠT XÀ RA BA NỂ
跋闍囉波你
VAJRA PANI
Tụng câu chú nầy, thì HÀNG PHỤC tấc cả Yêu ma Quỷ quái và BẢO HỘ CHÁNH PHÁP được thường trụ.
HÀNG PHỤC LÀ LÀM CHO YÊU MA QUỶ QUÁI… TẤT CẢ CHÚNG-SINH, PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
355. CU HÊ DẠ CU HÊ DẠ
具醯夜具醯夜
GUHYA GUHYA
THIẾT LẬP ĐẠO TRÀNG
356. CA ĐỊA BÁT ĐẾ
迦地般帝
KĀDHIPATI
GIÁC-NGỘ TÁNH NHƯ-LAI-TẠNG
357. HẤT RỊ ĐỞM
訖唎擔
KRTAM
358. TỲ ĐÀ DẠ XÀ
毗陀夜闍
VIDYĀM
359. SÂN ĐÀ DẠ DI
瞋陀夜彌
CCHIN DAYAMI
360. KÊ RA DẠ DI
雞囉夜彌
KILAYĀMI
361. RA THOA VỎNG
囉叉罔
RAKSA
LỄ BÁI SÁM HỐI
362. BÀ DÀ PHẠM
婆伽梵
BHAGAVAM
TÁN LỄ THÍCH-TÔN
363. ẤN THỐ NA MẠ MẠ TỎA
印兔那麼麼寫
INSONA MAMA SYA
THẬP ĐỊA ĐỐN SIÊU VÔ NAN SỰ
HỘI THỨ TƯ
KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI
(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)
Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.
Chư Kim-Cang Mật-Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
364. BÀ GIÀ PHẠM
婆伽梵
BHAGAVAM
NAM MÔ HOA-TẠNG GIÁO-CHỦ TỲ-LÔ GIÁ-NA PHẬT
BIẾN PHÁP-GIỚI TAM-BẢO.
365. TÁT ĐÁT ĐA BÁC ĐÁ RA
薩怛多般怛囉
SITATAPATRA
NAM-MÔ PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ.
366. NAM-MÔ TÝ ĐÔ ĐẾ
南無粹都帝
NAMO STUTE
NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO.
阿悉多那囉剌迦
ASITĀNALARKAH
NAM MÔ ÐƯƠNG-LAI HẠ SANH DI-LẶC TÔN PHẬT.
368. BA RA BÀ
波囉婆
PRABHA
ĐƯỢC THAM DỰ HỘI LONG HOA.
369. TẤT PHỔ TRA
悉普吒
SKROTA
NAM-MÔ KIM-CANG-TẠNG BỒ-TÁT.
370. TỲ CA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐẾ RỊ
毗迦薩怛多鉢帝唎
VIKA SITĀTAPATREH
HÀO QUANG TRẮNG CỨU CHÚNG SANH Ở NGỤC VÔ GIÁN.
Bạch quang toàn chuyển chiếu vô gián
Tôn thắng thiên Chú độ đại thiên
Không bất không tạng mật tích ấn
Ngũ phương ngũ bộ ngũ tâm truyền.
白光旋轉照無間
尊勝天咒度大千
空不空藏密跡印
五方五部五心傳
371. THẬP PHẬT RA THẬP PHẬT RA
什佛囉什佛囉
JVALA JVALA
PHẬT A DI ĐÀ PHÓNG VÔ LƯỢNG QUANG
NHIẾP THỌ CHÚNG SANH NIỆM PHẬT.
372. ĐÀ RA ĐÀ RA
陀囉陀囉
DARA DARA
BẢO HỘ NGƯỜI TRÌ GIỚI
373. TẦN ĐÀ RA TẦN ĐÀ RA
頻陀囉頻陀囉
VIDARA VIDARA
BẢO HỘ NGƯỜI SÁM HỐI
374. SÂN ĐÀ SÂN ĐÀ
瞋陀瞋陀
CCHINDA CCHINDA
NHIẾP HÓA CHÚNG SANH NIỆM
PHẬT A DI ĐÀ
375. HỔ HỒNG HỔ HỒNG
虎 𤙖 虎 𤙖
HŪM HŪM
ỦNG HỘ TAM BẢO THƯỜNG TRỤ
376. PHẤN TRA PHẤN TRA PHẤN TRA PHẤN TRA PHẤN TRA
泮吒泮吒泮吒泮吒泮吒
PHAT PHAT PHAT PHAT PHAT
MAU THÀNH TỰU NGŨ THỪA
377. TA HA
娑訶
SVĀHĀ
TIÊU TAI CÁT TƯỜNG
378. HÊ HÊ PHẤN
醯 醯 泮
HE HE PHAT
CHỈ KHI VỌNG
LẠI CŨNG ĐỀU VỐN LÀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG.
379. A MÂU CA DA PHẤN
阿牟迦耶泮
AMOGHAYĀ PHAT
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
阿波囉提訶多泮
APRATI HARĀYA PHAT
MAU THÀNH TỰU TRÍ BA LA MẬT
381. BA RA BÀ RA ĐÀ PHẤN
婆囉波囉陀泮
VARA PRADĀYA PHAT
MAU THÀNH TỰU NGUYỆN BA LA MẬT
382. A TỐ RA
阿素囉
ASURA
MAU THÀNH TỰU NHẪN BA LA MẬT
383. TỲ ĐÀ RA
毗陀囉
VIDRĀ
MAU THÀNH TỰU LỰC BA LA MẬT
384. BA CA PHẤN
波迦泮
PAKĀYA PHAT
MAU THÀNH TỰU PHƯƠNG TIỆN BA LA MẬT
385. TÁT BÀ ĐỀ BỆ TỆ PHẤN
薩婆提鞞弊泮
SARVA DEVE BHYAH PHAT
GIẢI THOÁT SỰ KHỔ LUÂN HỒI
薩婆那伽弊泮
SARVA NĀGA BHYAH PHAT
GIẢI THOÁT SỰ KHỔ LUÂN HỒI
薩婆藥叉弊泮
SARVA YAKSE BHYAH PHAT
GIẢI THOÁT SỰ KHỔ LUÂN HỒI
388. TÁT BÀ KIỀN THÁT BÀ TỆ PHẤN
薩婆乾闥婆弊泮
SARVA GANDHARVE BHYAH PHAT
GIẢI THOÁT SỰ KHỔ LUÂN HỒI
薩婆補丹那弊泮
SARVA PUTĀNA BHYAH PHAT
GIẢI THOÁT SỰ KHỔ LUÂN HỒI CỦA LOÀI BỔ ĐƠN NA
迦吒補丹那弊泮
KATA PUTANA BHYAH PHAT
GIẢI THOÁT SỰ KHỔ LUÂN HỒI CỦA LOÀI CA TRA BỔ ĐƠN NA
391. TÁT BÀ ĐỘT LANG CHỈ ĐẾ TỆ PHẤN
薩婆突狼枳帝弊泮
SARVA DURLAM GHIMTE BHYAH PHAT
HÀNG PHỤC CHÚNG MA, PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM,
TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
392. TÁT BÀ ĐỘT SÁP TỶ LÊ
薩婆突澀比犁
SARVA DUGHRE
HÀNG PHỤC CHÚNG
ÁC QUỶ QUÁI TINH, PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG
TRÍ.
393. HẤT SẮC ĐẾ TỆ PHẤN
訖瑟帝弊泮
KSIRE BHYAH PHAT
RỐT RÁO KHÔNG NGÃ
394. TÁT BÀ THẬP BÀ LÊ TỆ PHẤN
薩婆什婆犁弊泮
SARVA JVARE BHYAH PHAT
THẬP PHƯƠNG NHƯ LAI
NHÂN TỤNG TÂM CHÚ NÀY MÀ ĐƯỢC THÀNH PHẬT
395. TÁT BÀ A BÁ TẤT MA LÊ TỆ PHẤN
薩婆阿播悉摩犁弊泮
SARVA APASMARE BHYAH PHAT
Linh Văn Cứu Giúp Thế Giới Tránh Khỏi Ngày Tận Thế
396. TÁT BÀ XÁ RA BÀ NOA TỆ PHẤN
薩婆舍囉婆拏弊泮
SARVA GRAMANE BHYAH PHAT
TIÊU TRỪ TAI ÁCH
薩婆地帝雞弊泮
SARVA TIRTHIKE BHYAH PHAT
TIÊU TRỪ OÁN HẠI
398. TÁT BÀ ĐÁT MA ĐÀ KÊ TỆ PHẤN
薩婆怛摩陀繼弊泮
SARVA DHARMA DAKITE BHYAH PHAT
TIÊU TRỪ HIỂM NẠN
399. TÁT BÀ TỲ ĐÀ DA
薩婆毗陀耶
SARVA VIDYĀ
TIÊU TRỪ ĐỘC KHÍ
囉誓遮犁弊泮
RAJE CARYE BHYAH PHAT
THIỆT TƯỚNG VÔ TƯỚNG
401. XÀ DẠ YẾT RA
闍夜羯囉
JAYĀ KARA
GIẢI TRỪ TAI NẠN
402. MA ĐỘ YẾT RA
摩度羯囉
MADHU KARA
KIM CANG TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT BẢO HỘ
403. TÁT BÀ RA THA TA ĐÀ KÊ TỆ PHẤN
薩婆囉他娑陀雞弊泮
SAVARTHA SADDHĀKE BHYAH PHAT
HỘ PHÁP
404. TỲ ĐỊA DẠ
毗地夜
VIDYĀ
MỘT LÒNG KHÔNG TRỤ, MUÔN CẢNH ĐỀU NHÀN!
405. GIÁ LÊ TỆ PHẤN
遮唎弊泮
CARYE BHYAH PHAT
TỨC PHÁT BỒ ĐỀ QUẢNG ĐẠI NGUYỆN
406. GIẢ ĐÔ RA
者都囉
CATUR
HÀNG PHỤC THIÊN
MA NGOẠI ĐẠO, PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG
TRÍ.
407. PHƯỢC KỲ NỂ TỆ PHẤN
縛耆你弊泮
BHAGINĪ BHYAH PHAT
HỘ PHÁP ĐƯỢC THÂN KIM CANG
408. BẠT XÀ RA
跋闍囉
VAJRA
HỘ PHÁP ĐƯỢC GIẢI TRỪ TAI NẠN
409. CU MA RỊ
俱摩唎
KAUMĀRĪ
HỘ PHÁP ĐƯỢC RA KHỎI NHÀ LỬA TAM GIỚI
410. TỲ ĐÀ DẠ
毗陀夜
VIDYA
GIẢI THOÁT TAM ĐỒ BÁT NẠN
411. RA THỆ TỆ PHẤN
囉誓弊泮
RAJE BHYAH PHAT
TẤT CẢ PHÁP ĐỀU VÔ NGÃ
摩訶波囉丁羊
MAHĀ PRA TYUDG
PHÁP PHÁP BÌNH ĐẲNG KHÔNG CÓ CAO THẤP
413. XOA TỲ RỊ TỆ PHẤN
乂耆唎弊泮
HIRE BHYAH PHAT
HÀNG PHỤC SƠN YÊU THỦY QUÁI TINH, PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
414. BẠT RA XA THƯƠNG YẾT RA DẠ
跋闍囉商羯囉夜
VAJRA 'SANKALĀYA
TẤT CẢ CHÚNG SANH ĐỀU CÓ PHẬT TÁNH
NHƯ KIM CANG LỰC SĨ
415. BA RA TRƯỢNG KỲ RA XÀ DA PHẤN
波囉丈耆囉闍耶泮
PRATUNGIRA RAJAYA PHAT
TỊNH TRÍ QUANG MINH
416. MA HA CA RA DẠ
摩訶迦囉夜
MAHĀ KĀLĀYA
HÀNG PHỤC NGƯU QUỶ XÀ THẦN, PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
摩訶末怛唎迦拏
MAHĀ MĀTRGANA
ĐOẠN TUYỆT THỊ PHI
418. NAM-MÔ TA YẾT RỊ ĐA DẠ PHẤN
南無娑羯唎多夜泮
NAMO SKRTĀYA PHAT
NAM MÔ KIM CANG TẠNG BỒ TÁT
毖瑟拏婢曳泮
INDRAYA PHAT
THA HÓA TỰ TẠI THIÊN BẢO HỘ
420. BỘT RA HA MÂU NI DUỆ PHẤN
勃囉訶牟尼曳泮
BRAHMINIYE PHAT
LẠC BIẾN HÓA THIÊN BẢO HỘ
421. A KỲ NI DUỆ PHẤN
阿耆尼曳泮
AGNIYE PHAT
SẮC CỨU CÁNH VÀ TRƯỜNG THỌ THIÊN BẢO HỘ
摩訶羯唎曳泮
MAHĀ KĀLĪYE PHAT
TRỪ NẠN GIÓ BÃO
羯囉檀遲曳泮
KĀLADANDIYE PHAT
TRỪ NẠN NƯỚC XIẾT CUỐN TRÔI
424. MIỆC ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN
蔑怛唎曳泮
MĀTRĪYE PHAT
THÍCH ĐỀ HOÀN NHƠN BẢO HỘ
425. LAO ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN
嘮怛唎曳泮
RAUDRIYE PHAT
SÂN NỘ THẦN VƯƠNG BẢO HỘ
426. GIÁ VĂN TRÀ DUỆ PHẤN
遮文茶曳泮
CAMUNDIYE PHAT
TỰ TẠI THIÊN MA QUYẾN THUỘC BẢO HỘ
427. YẾT LA RA ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN
羯邏囉怛唎曳泮
KĀLARĀTRIYE PHAT
ĐẾ THÍCH THIÊN CHỦ BẢO HỘ
428. CA BÁC RỊ DUỆ PHẤN
迦般唎曳泮
KĀPĀRĪYE PHAT
THẦN THIỆN XẢ HỘ TRÌ CẤM GIỚI
429. A ĐỊA MỤC CHẤT ĐA
阿地目質多
ADHIMUKTO
THẦN VÔ NĂNG
ÁP HỘ TRÌ CHÁNH TRI KIẾN
430. CA THI MA XÁ NA
迦尸摩舍那
KASMASĀNA
TRỪ NẠN ÁC TINH
431. BÀ TƯ NỂ DUỆ PHẤN
婆私你曳泮
VĀSINĪYE PHAT
NGUYỆT QUANG THIÊN TỬ BẢO HỘ
432. DIỄN KIẾT CHẤT
演吉質
YEKE CITTA
KIM CANG TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
433. TÁT ĐỎA BÀ TỎA
薩埵婆寫
SATVA SASYA
TAM QUY-Y
434. MẠ MẠ ẤN THỐ NA MẠ MẠ TỎA
麼麼印兔那麼麼寫
MAMA INSONA MAMA SYA
THẬP ĐỊA ĐỐN SIÊU VÔ NAN SỰ
HỘI THỨ NĂM
VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI
(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)
Thụ
cùng hoành biến tận bao la
Vi
trần sát hải thập phương hiệp
Hoa
Tạng Tỳ Lô đại đàn tràng
Phổ
nhập thử giới diễn Ma Ha.
豎窮橫徧盡包羅
微塵剎海十方合
華藏毘盧大壇場
普入此界衍摩訶
Đây là “VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.
Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.
(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)
435. ÐỘT SẮC TRA CHẤT ĐA
突瑟吒質多
DRASTA CITTĀ
HÀNG PHỤC QUỶ VƯƠNG ÁC TÂM,
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
436. A MẠT ĐÁT RỊ CHẤT ĐA
阿末怛唎質多
AMAITRA CITTĀ
HÀNG PHỤC QUỶ ÁC NIỆM,
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
437. Ô XÀ HA RA
烏闍訶囉
UJĀ HĀRĀ
HÀNG PHỤC QUỶ TÀ KIẾN,
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG
TRÍ.
438. GIÀ BÀ HA RA
伽婆訶囉
GARBHA HĀRĀ
HÀNG PHỤC QUỶ ĂN THAI,
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
439. LÔ ĐỊA RA HA RA
嚧地囉訶囉
RUDHIRĀ HĀRĀ
HÀNG PHỤC QUỶ UỐNG MÁU,
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
440. TA BÀ HA RA
婆娑訶囉
VASA HĀRĀ
HÀNG PHỤC QUỶ ĂN TÀN LỬA KHÓI DẦU,
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
441. MA XÀ HA RA
摩闍訶囉
MAJJA HĀRĀ
HÀNG PHỤC QUỶ ĂN SẢN,
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
442. XÀ ĐA HA RA
闍多訶囉
JATĀ HĀRĀ
443. THỊ TỶ ĐA HA RA
視比多訶囉
JIVITA HĀRĀ
444. BẠC LƯỢC DẠ HA RA
跋略夜訶囉
VAGHYĀ HĀRĀ
445. KIỀN ĐÀ HA RA
乾陀訶囉
GANDHĀ HĀRĀ
446. BỐ SỬ BA HA RA
布史波訶囉
PUGHĀ HĀRĀ
447. PHẢ RA HA RA
頗囉訶囉
PHALA HĀRĀ
448. BÀ TỎA HA RA
婆寫訶囉
SASYĀ HĀRĀ
449. BÁC BA CHẤT ĐA
般波質多
PĀPA CITTĀ
450. ĐỘT SẮC TRA CHẤT ĐA
突瑟吒質多
DRASTA CITTĀ
451. LAO ĐÀ RA CHẤT ĐA
嘮陀囉質多
LODRA CITTĀ
452. DƯỢC XOA YẾT RA HA
藥叉揭囉訶
YAKSA GRAHĀ
453. RA SÁT TA YẾT RA HA
囉剎娑揭囉訶
RĀKSASA GRAHĀ
454. BẾ LỆ ĐA YẾT RA HA
閉隸多揭囉訶
PRETA GRAHĀ
455. TỲ XÁ GIÁ YẾT RA HA
毗舍遮揭囉訶
PISACA GRAHĀ
456. BỘ ĐA YẾT RA HA
部多揭囉訶
BHŪTA GRAHĀ
鳩槃茶揭囉訶
KUMBHANDA GRAHĀ
悉乾陀揭囉訶
SKANDA GRAHĀ
烏怛摩陀揭囉訶
UMĀDA GRAHĀ
460. XA DẠ YẾT RA HA
車夜揭囉訶
CCHĀYĀ GRAHĀ
阿播薩摩囉揭囉訶
APASMARĀ GRAHĀ
462. TRẠCH KHÊ CÁCH
宅祛革
DĀKA
463. TRÀ KỲ NI YẾT RA HA
茶耆尼揭囉訶
DĀKINĪ GRAHĀ
464. RỊ PHẬT ĐẾ YẾT RA HA
唎佛帝揭囉訶
REVATI GRAHĀ
465. XÀ DI CA YẾT RA HA
闍弭迦揭囉訶
JAMIKA GRAHĀ
466. XÁ CU NI YẾT RA HA
舍俱尼揭囉訶
'SAKUNI GRAHĀ
467. LAO ĐÀ RA
姥陀囉
MUDRA
468. NAN ĐỊA CA YẾT RA HA
難地迦揭囉訶
NANDIKA GRAHĀ
469. A LAM BÀ YẾT RA HA
阿藍婆揭囉訶
LAMVIKA GRAHĀ
乾度波尼揭囉訶
KANTHĀSĀNI GRAHĀ
471. THẬP PHẬT RA
什佛囉
JVALĀ
472. YÊN CA HÊ CA
堙迦醯迦
EKĀHIKĀ
473. TRỤY ĐẾ DƯỢC CA
墜帝藥迦
TRETIYAKĀ
474. ĐÁT LỆ ĐẾ DƯỢC CA
怛隸帝藥迦
DVAITIYAKĀ
475. GIẢ ĐỘT THÁC CA
者突託迦
CATURTHAKĀ
476. NI ĐỀ THẬP PHẠT RA
昵提什伐囉
NITYĀ JVALĀ
毖釤摩什伐囉
VISMA JVALĀ
478. BẠC ĐỂ CA
薄底迦
BATIKA
479. TỶ ĐỂ CA
鼻底迦
VITTIKA
480. THẤT LỆ SẮT MẬT CA
室隸瑟密迦
'SLESMIKĀ
481. TA NỂ BÁC ĐẾ CA
娑你般帝迦
SANDIPATIKA
482. TÁT BÀ THẬP PHẠT RA
薩婆什伐囉
SARVA JVALĀ
483. THẤT LÔ KIẾT ĐẾ
室嚧吉帝
'SIRO RTTI
484. MẠT ĐÀ BỆ ĐẠT LÔ CHẾ KIẾM
末陀鞞達嚧制劍
MATAPE TALO CIGAM
485. A Ỷ LÔ KIỀM
阿綺嚧鉗
AKSIROGAM
486. MỤC KHÊ LÔ KIỀM
目佉嚧鉗
MUKHAROGAM
487. YẾT RỊ ĐỘT LÔ KIỀM
羯唎突嚧鉗
HRDROGAM
cure Heart Disease (chữa bệnh tim)
488. YẾT RA HA
揭囉訶
GRAHĀ
揭藍羯拏輸藍
KARNDA SŪLAM
490. ĐẢN ĐA DU LAM
憚多輸藍
DANDA SŪLAM
491. HẤT RỊ DẠ DU LAM
迄唎夜輸藍
HRDAYA SŪLAM
492. MẠT MẠ DU LAM
末麼輸藍
MARMA SŪLAM
跋唎室婆輸藍
PĀRĀ 'SVA SŪLAM
毖栗瑟吒輸藍
PARISTHI SŪLAM
495. Ô ĐÀ RA DU LAM
烏陀囉輸藍
UDARA SŪLAM
cure disease abdominal pain (chữa bệnh đau bụng)
496. YẾT TRI DU LAM
羯知輸藍
KATI SŪLAM
497. BẠT TẤT ĐẾ DU LAM
跋悉帝輸藍
VASTI SŪLAM
cure disease Bladder Pain (chữa bệnh đau bàng quang bọng đái)
498. Ô LÔ DU LAM
鄔嚧輸藍
ŪRŪ SŪLAM
499. THƯỜNG GIÀ DU LAM
常伽輸藍
JAMGHA SŪLAM
500. HẮC TẤT ĐA DU LAM
喝悉多輸藍
HASTA SŪLAM
501. BẠT ĐÀ DU LAM
跋陀輸藍
502. TA PHÒNG ÁN GIÀ
娑房盎伽
般囉丈伽輸藍
504. BỘ ĐA TỶ ĐA TRÀ
部多毖跢茶
505. TRÀ KỲ NI
茶耆尼
506. THẬP BÀ RA
什婆囉
507. ĐÀ ĐỘT LÔ CA
陀突嚧迦
508. KIẾN ĐỐT LÔ KIẾT TRI
建咄嚧吉知
509. BÀ LỘ ĐA TỲ
婆路多毗
510. TÁT BÁC LÔ
薩般嚧
511. HA LĂNG GIÀ
訶凌伽
512. DU SA ĐÁT RA
輸沙怛囉
513. TA NA YẾT RA
娑那羯囉
514. TỲ SA DỤ CA
毗沙喻迦
515. A KỲ NI
阿耆尼
516. Ô ĐÀ CA
烏陀迦
517. MẠT RA BỆ RA
末囉鞞囉
518. KIẾN ĐA RA
建多囉
519. A CA RA
阿迦囉
520. MẬT RỊ ĐỐT
密唎咄
521. ĐÁT LIỂM BỘ CA
怛斂部迦
522. ĐỊA LẬT LẶC TRA
地栗剌吒
523. TỶ RỊ SẮC CHẤT CA
毖唎瑟質迦
524. TÁT BÀ NA CU RA
薩婆那俱囉
525. TỨ DẪN GIÀ TỆ
肆引伽弊
526. YẾT RA RỊ DƯỢC XOA
揭囉唎藥叉
527. ĐÁC RA SÔ
怛囉芻
528. MẠT RA THỊ
末囉視
529. PHỆ ĐẾ SAM
吠帝釤
530. TA BỆ SAM
娑鞞釤
悉怛多鉢怛囉
532. MA HA BẠC XÀ LÔ
摩訶跋闍嚧
533. SẮC NI SAM
瑟尼釤
534. MA HA BÁC LẶC TRƯỢNG KỲ LAM
摩訶般賴丈耆藍
535. DẠ BA ĐỘT ĐÀ
夜波突陀
536. XÁ DỤ XÀ NA
舍喻闍那
537. BIỆN ĐÁT LỆ NOA
辮怛隸拏
538. TỲ ĐÀ DA
毗陀耶
539. BÀN ĐÀM CA LÔ DI
槃曇迦嚧彌
540. ĐẾ THÙ
帝殊
541. BÀN ĐÀM CA LÔ DI
槃曇迦嚧彌
542. BÁT RA TỲ ĐÀ
般囉毗陀
543. BÀN ĐÀM CA LÔ DI
槃曇迦嚧彌
544. ĐÁC ĐIỆC THA
跢姪他
545. ÁN
唵
546. A NA LỆ
阿那隸
547. TỲ XÁ ĐỀ
毗舍提
548. BỆ RA
鞞囉
549. BẠT XÀ RA
跋闍囉
550. ĐÀ RỊ
陀唎
551. BÀN ĐÀ BÀN ĐÀ NỂ
槃陀槃陀你
跋闍囉謗尼泮
虎 𤙖 都 嚧 甕 泮
554. TA BÀ HA.
莎婆訶.
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
ĐÁC ĐIỆC THA.
ÁN, A NA LỆ,
TỲ XÁ ĐỀ, BỆ RA BẠT XÀ RA ĐÀ RỊ, BÀN ĐÀ BÀN ĐÀ NỂ, BẠT XÀ RA BÁN NI PHẤN. HỔ HỒNG,
ĐÔ LÔ UNG PHẤN, TA BÀ HA.
KHAI THỊ “ KINH THỦ LĂNG NGHIÊM”
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN-TÂM
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
CHUNG
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)
( Nếu có tập khí các đời trước không thể diệt trừ, ông dạy người đó nên nhất tâm tụng thần chú của ta: “PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ")
BÀI SỐ 90
Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi
Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ
Lần lượt các kinh đều diệt hết
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.
NHƯ Ý : Theo lời HUYỀN KÝ của Phật, thì Thời Mạt Kiếp về sau, Trước Tiên Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm diệt mất, đức Như-Lai thương xót, dùng sức BI NGUYỆN lưu trụ Kinh Vô-Lượng-Thọ 100 năm để ĐỘ SANH, sau khi các Kinh đều Tuyệt Tích.
Thiên Như Thiền Sư cũng bảo :
“Sau Thời Mạt Pháp các kinh diệt hết, chỉ còn 4 Chữ A Di Đà Phật để độ chúng sanh”.
Nầy Vi-Đề-Hy, trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, TÔI đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng.
Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng-Già, kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa ... Nếu không nương nhờ PHÁP NIỆM PHẬT thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông.
Bởi vì sao ?
Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
Đời Diêu Tần, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn-văn ra Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ, đức Thích Tôn có lời huyền ký:
“Đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta dùng lòng từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này (Vô Lượng Thọ Kinh) trong khoảng một trăm năm. Nếu chúng sanh nào gặp kinh này, tùy ý sở nguyện, đều được đắc độ”
(Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ. - Vô Lượng Thọ Kinh).
Ngài Thiên Như thiền sư, sau khi đắc đạo cũng đã khuyên dạy:
“Mạt pháp về sau, các kinh diệt hết, chỉ còn lưu bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ bị đọa địa ngục”
(Mạt pháp chi hậu, chư kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Đà Phật tứ tự cứu độ chúng sanh. Kỳ bất tín giả, ưng đọa địa ngục. – Thiên Như ký ngữ).
Bởi đời mạt pháp về sau khi các kinh đều ẩn diệt, chúng sanh căn cơ đã yếu kém, ngoài câu niệm Phật, lại không biết pháp môn nào khác để tu trì. Nếu không tin câu niệm Phật mà tu hành, tất phải bị luân hồi. Và trong nẻo luân hồi, việc lành khó tạo, điều ác dễ làm, nên sớm muộn gì cũng sẽ bị đọa địa ngục.
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Bây giờ là thời Mạt pháp đấu tranh kiên cố, mà chúng ta có thể tu trì Phật pháp, làm cho Phật pháp còn mãi ở đời, hành trì sự nghiệp của Chánh pháp, mỗi ngày tụng trì chú Lăng Nghiêm, như thế là chúng ta giúp đỡ cho toàn thế giới này vậy! Tại sao thế? Bởi vì nếu thế giới này không còn một ai tụng chú Lăng Nghiêm cả, thì thế giới sẽ sớm đi đến chỗ hủy diệt.
Bấy giờ tất cả yêu ma quỷ quái, ly mị vọng lượng, đều xuất hiện. Hiện tại vì sao chúng không dám xuất hiện? Vì ở thế giới này vẫn còn có người trì tụng chú Lăng Nghiêm, tu 42 Thủ Nhãn của chú Ðại Bi, tu pháp môn ngàn tay ngàn mắt, nên yêu ma quỷ quái kiêng sợ, không dám xuất hiện, hoành hành.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm Lược Giảng
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Hán dịch: Dao Tần, Tam-tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa,
Vạn Phật Thánh Thành, Hoa Kỳ.
Tuy biết con đường CHƠN THẬT ( NHĨ CĂN VIÊN-THÔNG) chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua các địa vị tu chứng gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH, tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.
Cho nên, PHẬT BỒ-TÁT dạy phải trì “CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, TU 42 THỦ-NHÃN CỦA CHÚ ĐẠI-BI" thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA-CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU-GIÁC của CHƯ PHẬT.
LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ có 5 hội:
HỘI THỨ NHẤT
TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI
( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )
Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.
HỘI THỨ HAI
THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI
( SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)
Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.
HỘI THỨ BA
QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI
(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)
Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách tự-tại.
HỘI THỨ TƯ
KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI
(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)
Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.
Chư Kim-Cang Mật-Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.
HỘI THỨ NĂM
VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI
(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)
Đây là “VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.
Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.
(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ là trên ĐẢNH PHẬT phóng ra 10 đạo hòa QUANG bách bảo và TỤ lại trên ĐẢNH CHÚNG-SANH trong Pháp Giới, khi tụng Thần Chú Thủ-Lăng Nghiêm.
Đây là Hóa Thân Phật dùng THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM để “ẤN-TÂM” cho Qúy-vị sẽ thành Phật trong vị lai.
ĐẠI (Lớn) là “THỂ” của Chú Lăng Nghiêm, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA-HA.
BẠCH (Trắng) là “TƯỚNG” của Chú Lăng-Nghiêm, thanh tịnh không ô nhiễm, nên gọi là TÁT ĐÁT ĐA.
TÁN CÁI (Tàng Lọng) là “DỤNG” của Chú Lăng Nghiêm, có khả năng che chở, bảo hộ, TRUỞNG DƯỠNG THIỆN CĂN, TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TRONG VÔ LƯỢNG KIẾP, KHÔNG TRẢI QUA 3 A-TĂNG KỲ, MÀ QÚY VỊ CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, nên gọi là BÁT ĐÁT RA.
CỨU CÁNH KIÊN CỐ là THỦ LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH, định này là VUA trong các định.
THẦN là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.
CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.
TRÊN ĐẢNH CỦA PHẬT TỲ LÔ GIÁ NA (PHẬT PHÁP-THÂN) LƯU LỘ RA NGŨ-TRÍ. CHO NÊN, GỌI LÀ “NGŨ-TRÍ” ĐẢNH CỦA TỲ -LÔ-GIÁ-NA.
1) PHÁP GIỚI TRÍ
TRÍ cùng khắp hư không, vì dùng LƯỚI ĐẠI QUANG MINH chiếu khắp PHÁP GIỚI CHÚNG SANH. CHO NÊN, GỌI LÀ PHÁP GIỚI TRÍ.
2) ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ
3) BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ
4) DIỆU QUÁN SÁT TRÍ
5) THÀNH SỞ TÁC TRÍ
Còn thời khóa chiều hôm, hành giả tụng Di Đà, Hồng danh bảo sám và Mông Sơn thí thực để giúp tiêu nghiệp, sanh phước và khởi bi tâm, thí thức ăn uống cho cô hồn ngạ quỷ, rồi niệm Phật đem công đức hồi hướng cầu cho mình và bốn ân ba cõi, tất cả loài hữu tình đều sanh về Tịnh Độ.
Cho nên hai thời khóa tụng đều do chư Bồ-tát, Tổ sư dùng trí huệ hiểu rộng thấy xa biên soạn ra để làm lợi vui cho tất cả chúng sanh, nếu bác bỏ chẳng những là thiển cận mà sợ e còn có tội với Phật pháp nữa.
Và sau rốt, xin mượn mấy lời để kết cuộc:
Biển lệ tràn đầy kiếp chuyển-luân
Ai người biết nghĩ tự thương thân?
Xuống lên sáu nẻo
Thống não vô ngần!
Con đường sa đọa khôn ly thoát
Huyễn thân mấy chốc
Tám khổ xoay vần!
Nhục vinh tài sắc bao nhiêu mộng
Niệm Phật tu hành một kiếp chân
Sớm mượn đài sen về Cực Lạc
Mới mong xa dứt lụy hồng trần
Nhọc nhằn mai lại tối
Già chết chợt đà gần!
Vô Nhất Đại Sư
Thứ Ba Mươi Bảy
Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.
Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.
Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. [53-56]
Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.
BÀI KỆ THỨ 22
Một câu A Di Ðà
Khiến được Ðại Tổng Trì
Chuyển hết tất cả vật
Sử dụng mười hai thì.
(Nhứt cú Di Ðà
Ðắc Ðại Tổng Trì
Chuyển nhứt thiết vật
Sử thập nhị thì.)
LƯỢC GIẢI
Ðại Tổng Trì là sự thông suốt nắm giữ tất cả pháp với tầm mức lớn lao rộng rãi. "Muốn được tất cả, phải bỏ tất cả". Ví như tấm gương sáng lớn mà đem vật gì che áng ở trước, dù là một bình hoa đẹp, tất chỗ đó mất sự chiếu soi tự tại.
Chơn tâm của chúng ta là tấm gương Ðại Viên Cảnh Trí, nếu chấp giữ một pháp nào, dù đó là Phật lý cao siêu mầu nhiệm, tất cũng sẽ bị kém mất sức chiếu soi tự tại, sự thông suốt tất cả pháp. Như thế làm sao được Ðại Tổng Trì?
Kinh nói: "Thấy biết mà giữ sự thấy biết là gốc vô minh. Thấy biết không giữ sự thấy biết, đó mới chính Niết bàn". (Tri kiến lập tri, tức vô minh bản. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết Bàn).
Cho nên chuyên nhứt câu niệm Phật, xả bỏ tất cả, hành giả quyết sẽ được Ðại Tổng Trì, Ðại Tam Muội.
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển được vật, tức đồng với Như Lai". (Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai).
Chúng sanh tâm thường hướng ngoại, không biết các pháp là huyễn, cho nên bị cảnh lục trần xoay chuyển, như con trâu lâm cảnh xỏ giàm dắt đi, hằng chịu sự phiền não buộc ràng không được tự tại. Nếu quán xét các pháp là huyễn, giữ một câu Phật hiệu xoay chiếu vào trong thì tâm lần lần thanh tịnh tự tại, sẽ làm chủ được các pháp, không còn bị các pháp sai sử làm chủ nữa.
Ðó gọi là "chuyển vật" là đồng với Như lai. Trái lại, tức là bị vật chuyển, đồng với chúng sanh vậy.
Ấn Quang pháp sư bảo: "Một lòng không trụ, muôn cảnh đều nhàn!" (Nhứt tâm vô trụ, vạn cảnh câu nhàn).
Khi tâm trụ nơi các pháp thì thấy thời gian có lâu mau, bị cảnh giới làm cho loạn động, sanh niệm ưa, chán, ghét, thương, khổ, vui, cùng vô lượng phiền não. Như trên, khi hành giả giữ câu niệm Phật thanh tịnh, không để cho vật chuyển, thì trong mười hai thời của ngày đêm, hằng được nhàn nhã, tự tại, tùy ý sử dụng mọi sự, việc nào đáng làm trước hoặc làm sau đều theo tuần tự, chẳng khác vị Ðông y sĩ tùy nghi sử dụng các hộc thuốc của mình.
Tóm lại, nếu khéo biết tu hành thì cách tự tại sử dụng trong mười hai thời, sự làm chủ xoay chuyển các pháp, cho đến chứng đắc cảnh giới Ðại Tổng Trì, then chốt đều do ở nơi câu niệm Phật.
PHẠM NGƯƠN LỄ
Cư sĩ Phạm Ngươn Lễ tự Dụng Hòa, người đời Thanh, quê ở Tiền Đường. Thuở niên thiếu ông học Nho, tâm hạnh thành thật, thờ song thân rất có hiếu. Một độ, người cha đau, ông cắt thịt bắp vế sắc hòa với thuốc đem dâng, bịnh được lành. Mẹ là Dư thị ốm nặng, ông lại làm như thế một lần nữa, bịnh cũng thuyên giảm.
Không bao lâu, song thân đều quá vãng, vợ cũng kế tiếp mãn phần. Bấy giờ đang lúc tráng niên, Ngươn Lễ cảm khái cuộc thế vô thường, dẹp bỏ duyên trần, theo nhà dưỡng chân tu học đạo Tiên. Trải hơn mười năm như thế, công phu đã có đôi phần hiệu nghiệm. Sau nhân đọc sách của ngài Liên Trì, ông chợt tỉnh ngộ, đến chùa Vân Thê xin thọ tam quy ngũ giới. Ngươn Lễ giữ giới hạnh rất bền chắc, những thứ phục dụng bằng tơ tằm lông thú đều không dùng, bỏ hết lối tu cũ, chuyên về Tịnh độ. Đối với pháp quán tưởng, cư sĩ lại càng tinh mật. Trước kia khi thân mẫu sắp lâm chung tinh thần mờ loạn, cư sĩ khuyên chuyên lòng quán tưởng đức Quán Thế Âm, bà mẹ y lời làm theo. Vài hôm sau, bỗng nói: “Mẹ đã được Bồ Tát tiếp dẫn đến cảnh giới lạ mầu sáng đẹp!’’ Nói xong vui vẻ mà qua đời. Bởi duyên do đó, Ngươn Lễ rất tin sự hiệu nghiệm của môn quán tưởng.
Cư sĩ tánh hiền lành, ưa phóng sanh bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo khổ hoạn nạn. Khi làm những việc từ thiện, ông rất siêng cần chu đáo, không nài mỏi nhọc. Gặp chư Tăng Ni, đều phát tâm tùy sức cúng dường không bỏ sót. Vì thế đương thời nghe tới tên Ngươn Lễ, hàng tăng tục đều biết và mến trọng.
Mùa hạ năm Đạo Quang thứ tám, cư sĩ đóng cửa nhập thất nơi Đại Động Các ở Thành Nam, định kỳ hạn trăm ngày niệm Phật. Một hôm đang khi ngồi tịnh, huyền công tu Tiên thuở trước bỗng phát hiện. Lúc ấy ông cảm thấy thanh khí của trời đất từ giữa hư không kết thành nhiều làn, liên tiếp đi vào đảnh, mũi, miệng, rồi thẳng xuống đơn điền, cùng với ngươn khí của mình hòa hợp. Bấy giờ thân tâm rất an ổn nhẹ nhàng và điềm lạc không thể thí dụ. Giây phút có một đứa anh nhi cao chừng vài tấc, từ đảnh môn xuất hiện. Đứa bé ấy bay liệng xung quanh đùa giỡn trải một thời gian, rồi do đảnh đầu trở vào. Từ đó về sau, mỗi khi tu đến mức cực tĩnh quên trần niệm, liền có anh nhi ra vào như trước. Ban sơ Ngươn Lễ tâm ý rất mừng, sau đó chợt nghĩ:
“Đây có phải là một trong năm mươi thứ ấm ma của kinh Lăng Nghiêm nói chăng? Nếu ta cho là kỳ đặc tất sẽ lạc vào bẩy tà. Vả lại người niệm Phật chí ở Tây phương, thánh cảnh không hiện, lại chuộng thứ nầy để làm gì?”
Do đó thường thường giác chiếu giữ chánh niệm, anh nhi mới không còn xuất hiện. Nhờ duyên nầy, cư sĩ mới khế ngộ sâu lý duy tâm, sức tín nguyện hạnh càng thêm thuần chắc, về sau ông thường bảo người rằng: “Cảnh giới ấy là cửa ải nguy hiểm nhứt thuở sanh bình. Nếu tôi không sớm giác tỉnh, tất sẽ lạc vào bàng môn. Thế nên biết sự tu hành cần phải tinh tường dè dặt!”
Mùa hạ năm Đạo Quang thứ mười một, Ngươn Lễ tĩnh dưỡng nơi chùa Tịch Chiếu ngoài cửa Thanh Thái. Ở địa phương nầy có bà họ Trầm lòa cả đôi mắt. Bà có chí niệm Phật, song bị con dâu thường ngăn trở. Cư sĩ nghe biết liền bảo: “Việc nầy có thể dàn xếp ổn thỏa. Hành động của cô dâu kia là do vì gia cảnh nghèo thiếu, nếu giúp cho sự sống tất mọi việc đều yên”. Nói đoạn ông vào thành quyên mộ, nhờ người giúp cho Trầm bà mỗi tháng vài đấu gạo. Bà dùng có dư chuyển giao cho người dâu, nên cô nầy hoan hỷ không còn ngăn trở nữa. Ngươn Lễ lại diễn nói sự lợi ích về niệm Phật cho nghe, và dạy bảo cách sám hối phát nguyện. Mấy tháng sau, một người hàng xóm của Trầm thị tới nói với cư sĩ: “Bà lão niệm Phật hôm trước, nay đã vãng sanh rồi!” Ngươn Lễ hỏi nguyên do, người ấy thuật lại từng việc:
Sau khi được sự giúp đỡ, bà lão siêng năng niệm Phật thế nào? Sám hối phát nguyện ra sao? Đến tháng vừa rồi, Trầm thị biết trước ngày về Tây phương, bảo cho cô dâu hay. Tới kỳ hạn, bà tắm gội thay y phục, ngồi chắp tay niệm Phật mà vãng sanh Trầm bà di chúc cho cô dâu nhờ chuyển lời tạ ơn Phạm công. Hiện thời bà vừa mãn phần chưa có quan quách và đồ tẩn liệm. Cô dâu định bán đứa con gái để lo sắm về việc ấy. Bây giờ phải làm thế nào?”
Ngươn Lễ nghe nói, liền bàn với các thiện hữu, góp chung được một số tiền, giao cho người hàng xóm đem đến giúp cô dâu. Hơn tuần sau, ông lại tới nhà hỏi thăm. Đến nơi thì người dâu tay đang cầm tràng chuỗi, miệng lâm râm niệm Phật. Thấy cư sĩ đến, cô vui mừng đón rước kính lời tạ ơn. Vừa ngồi xong, những người hàng xóm hay tin tề tựu, tranh nhau muốn biết mặt Phạm công. Rồi hết kẻ nọ tới người kia chuyền nhau thuật lại việc của bà họ Trầm, đại khái y như ông hàng xóm đã nói hôm trước. Họ lại chỉ một cô bé nói: “Khi mua quan quách tẩn liệm xong, hàng xóm đều bàn luận: Phạm công vốn người ở trong thành, mà còn chịu từ xa làm việc thiện. Chúng ta là tình lân lý, đâu nên làm khách bàng quan! Do đó tất cả mới chung góp tiền mua đất, đem quan tài của mẹ cháu và luôn linh cữu của chồng cháu đã quàn để từ lâu, đồng một ngày đem đi an táng!” Cư sĩ nghe nói vui vẻ ra về.
Mùa đông năm ấy, Ngươn Lễ đem những công việc từ thiện của mình làm còn dở dang lo tính toán kết thúc và chuyển giao trách vụ cho một liên hữu khác. Tháng giêng năm sau, cư sĩ đến riêng từng nhà các đồng bạn, ân cần khuyến khích tu hành, dường như kẻ sắp đi xa. Người con trai của cư sĩ có việc đến miền Tòng Giang, ông bảo: “Con đi ra ngoài, mọi việc nên khéo xử sự. Cha nay tuổi già, thảng có điều chi biến cố, cũng chớ nên kinh lo. Phải giữ bổn phận mình đối với trách vụ của người giao phó!” Nghe nói, cậu trai tuy hiểu biết, song chỉ cho đó là lời quá lo xa của người lớn tuổi mà thôi.
Đến ngày hai mươi bốn tháng giêng, Ngươn Lễ thức dậy sớm bảo gia nhơn rằng: “Hôm nay ta thấy trong người hơi mỏi nhọc!” Nói đoạn vẫn dùng cháo sáng như thường. Ăn xong, cư sĩ đi tản bộ đến trước nhà gần bên đứng bàng hoàng một khắc, rồi trở về ngồi ngay thẳng nơi giường niệm Phật. Con cháu trong nhà thấy hơi lạ hỏi thăm, ông khoác tay ra dấu bảo im lặng. Đến giờ Ngọ, tiếng niệm nhỏ lần rồi an ổn mà qua đời. Giờ Dậu ngày hôm sau nhập liệm, đảnh đầu hãy còn nóng. Bấy giờ nhằm năm Đạo Quang thứ mười hai, cư sĩ hưởng thọ sáu mươi ba tuổi.
LỜI BÌNH:
Xem cách thức Dụng Hòa lo kết liễu mọi việc, từ biệt bạn, dặn dò con, chẳng thể gọi là không dự biết trước giờ lâm chung. Nhưng tại sao ông lại không nói ra minh bạch? Theo thiển ý, sự biết trước ngày giờ quí ở chỗ tự biết để cho tâm được yên vững, không chủ đích để phô trương với mọi người. Huống chi nếu đến giờ mà bạn lành đều tụ họp, hoặc ra có sự lợi ích trợ đạo.
Thảng như quyến thuộc không nén được thế tình, vây quanh ngậm ngùi thương khóc, há chẳng phải muốn thành mà trở lại bại ư? Việc cư sĩ Dụng Hòa không nói ra, tất cũng bời lý do đó.
Comments
Post a Comment