13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì trong 10 nghĩa?
Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này giúp cho quí vị duy trì bản tâm
thanh tịnh của mình. Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi… thì tâm
quí vị liền bị ô nhiễm, không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị không mong
khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc chắn quí vị
chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn biết thì trước tiên tôi phải giảng.
Lúc đó quí vị mới hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa của cân chú
ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào quang
rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh” nghĩa là
ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm đại quang
minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực, quang minh của tâm lực thường chiếu rộng
khắp, mãi mãi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận; từ một vi trần
cho đến vô cùng vô tận thế giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy, tôi đã nghe
trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”
Vâng, nhưng trừ phi quí vị không nghe tôi giảng giải thần Chú
Đại Bi thì quí vị không thể nào biết được. Tôi sẽ giảng cho quí vị rõ. Thật là
khó gặp được người nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rõ ràng tường
tận. Thực vậy, hoàn toàn thực tình mà nói, không mấy người thể nhập được rốt
ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc là chuyển được ý nghĩa của thần chú.
Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi thì thôi,
chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi phải
biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe được. Vì
thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại biết.
Thay vì quí vị hỏi tại sao tôi biết, thì quí vị hãy quay trở
lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không biết? Nếu quí vị biết được lý do tại
sao mình không biết, thì quí vị sẽ rõ được tại sao tôi biết. Trái lại, nếu quí
vị không thể nào rõ được tại sao quí vị không biết, thì quí vị cũng không thể
nào rõ được lý do tại sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu vậy.
Chẳng hạn có người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm người
xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại
không làm người xuất gia? Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất gia,
thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp
cũng như vậy. Thay vì quí vị hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì
quí vị hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình không hiểu được. Khi quí vị đã
hiểu được tại sao mình không biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại biết
được đạo lý ấy. Nay quí vị đều là những người có nhiều thiện căn nên được dự
pháp hội giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ trì, bảo trọng cho thiện căn
của mình. Tự mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu nhập Phật
pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả.
Hiện tại chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư Phật và Bồ
– tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời gian này, lòng người đang tiến dần đến
chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp, cũng không dễ gì gặp
được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại giới đàn,
năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi
thư cho tôi biết nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần phải tu
hành gì cũng có thể thành tựu đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng:
“Chúng tôi cũng là những con người như những con người khác, nếu không chịu tu
hành thì làm sao có thể tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu hành trì thì làm
sao liễu ngộ được chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng công tu
tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì trước đây đức Phật chẳng cần vào núi Tuyết
tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền
định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc thì Ngài tựu thành chánh giác.
Đức Phật còn phải tu hành mới thành tựu chánh giác. Còn mỗi
chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn tu hành thì làm sao có thể thành
Phật được? Ai ai cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả,
nhưng người chân thật tu hành thì rất ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu
hành thì đều có thể bị đọa vào địa ngục, nhưng người không chịu tu hành thì
không sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà có được điều kiện để
nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh tấn lên, không nên biếng nhác, hãy
siêng năng công phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu. Nếu không
tinh tấn dõng mãnh mà mong thành tựu đạo nghiệp thì không thể nào có được.Vì
thế nên quí vị đừng ngại gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ nên
quên. Phải đánh trống dõng mãnh lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng
thẳng đến công phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí vị không
phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo lý này đối với quí vị cũng
chẳng có lợi ích gì. Quí vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt trong
cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong Phật pháp, điều gì quí vị cũng muốn diễn bày cho rõ ràng
minh bạch thì thường bị đánh mất những nghĩa lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có
trình bày hết về diệu lý của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không tin sâu và không
hành trì thì điều tôi giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa sự hành trì cần
phải thường xuyên vào mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không lui sụt,
không biếng nhác. Đây là điều khẩn thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc đều
hướng về phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày kia sẽ trực nhận
ra “mặt mày xưa cũ” của chính mình.
Bàn đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay “trường chiếu
minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm
không”. Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí tuệ. Với trí tuệ,
hành giả mới có được quang minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng
khắp mọi pháp giới được. Tức là không còn tối tăm, mê muội, tức là không còn vô
minh.
Sao gọi là “vô minh”, vì tâm của quí vị không có được sự tỏa chiếu
soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí vị không có được “đại quang minh”. Nếu
quí vị có được “đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự tỏa chiếu soi
sáng khắp mọi pháp giới, có nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô minh. Một khi
vô minh đã bị chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí
tuệ chân thật của quí vị.
Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí
Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền
sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe
tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi
nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn
toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng.
Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết
cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng
đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng
và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống,
như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để
tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh
chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban
cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt
lành như ý. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài
liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy.
Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa
cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân
duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha
con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có
thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là
con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của
nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu
gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con
gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn
lường.
Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi
bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới
vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì
nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ
một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu
người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi
việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người chết
sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà
rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt
vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than
khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó
Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến
tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói
“cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết
bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau
phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái
hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều
ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ
cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội
của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu
thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như
thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam
đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé
gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là
mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã
phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do
vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát
tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống.
Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của
anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống.
Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở trên”
Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại
làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới
này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát
sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị
giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau.
Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những
oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với
trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn
trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng
với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những
món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần
vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con
lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên
thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc
cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa
chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành
hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào
không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất
luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta
vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa
với Ngài:
- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con
không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho
con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này
chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe.
Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng
con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ
được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu
thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp
trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả
tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp
này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa
(chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ
cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà
mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau
báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn
đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người
chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc
chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta tìm
cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông
chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại
việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai
người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh
chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta
để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau
tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai
đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời
trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc
của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển hóa,
biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai
con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ
câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này
với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay
không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ
câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi
mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và
hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
- Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm
trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há
miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị
mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu
này không thể bay được?
Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không
phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế nên Ngài có năng
lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không
phải là Bồ – tát, không làm chuyện này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư.
Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há
miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh
giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao
giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa
chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong
khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ –
tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành
xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi
hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người
khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến
mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm
lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác giác ngộ.
Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng
cũng nằm trong đạo lý này vậy.
Comments
Post a Comment