Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
385. TÁT BÀ ĐỀ BỆ TỆ PHẤN
薩婆提鞞弊泮
SARVA DEVE BHYAH PHAT
Dục
thiền chánh ma phàm ngoại thiên
Thánh
nhân quân thần chủ bạn liên
Văn
Chú hàng phục giai khâm kính
Hộ
trì Tam Bảo phước huệ miên.
欲禪正魔凡外天
聖人君臣主伴連
聞咒降伏皆欽敬
護持三寶福慧綿
GIẢI THOÁT SỰ KHỔ
LUÂN HỒI
Kinh văn:
Nếu
có chư thiên muốn thóat khỏi loài trời, Con (Quán Thế Âm Bồ-tát) sẽ hiện ra thân chư thiên, nói pháp cho họ nghe để giúp họ được
thành tựu.
Giảng giải:
Nếu
có chư thiên muốn thóat khỏi loài trời. Các vị thiên nam và thiên nữ nầy không
muốn lưu lại trong cõi trời nữa, họ muốn toát khỏi Tam giới. Con sẽ hiện ra
thân chư thiên, nói pháp cho họ nghe để giúp họ được thành tựu. Vì họ muốn thóat
khỏi cõi trời, con liền hiện thân trước họ, dùng mọi phương tiện để giúp họ đạt
được điều họ muốn.
KINH LĂNG NGHIÊM
Chúng sanh hết kiếp
này sang kiếp khác sống chết luân hồi, xuống lên trong sáu cõi. Đó là: cõi
trời, cõi người, cõi A Tu La, cõi bàng sanh, cõi ngạ quỷ, và cõi địa ngục. Bát
khổ tuy các loài khác cũng có ít nhiều, nhưng nó là trọng tâm của nỗi khổ ở cõi
người. Cõi trời tuy vui vẻ hơn nhơn gian, nhưng cũng còn tướng ngũ suy và những
điều bất như ý. Cõi A Tu La bị sự khổ về gây gổ, tranh đua. Cõi bàng sanh như
loài trâu, bò, lừa, ngựa bị sự khổ chở kéo nặng nề. Loài dê, lợn, vịt, gà, thì
bị sự khổ về banh da xẻ thịt. Các loài khác chịu sự khổ về ngu tối; nhơ nhớp ăn
nuốt lẫn nhau. Ở cõi ngạ quỷ chúng sanh thân thể hôi hám xấu xa, bụng lớn như
cái trống, cuống họng nhỏ như cây kim, miệng phực ra lửa chịu đói khát trong
ngàn muôn kiếp. Còn cõi địa ngục thì vạt dầu, cột lửa, hầm băng giá, non gươm
đao, sự thống khổ không thể tả xiết. Bốn cõi rốt sau này, trong kinh gọi là Tứ
Ác Thú. Từ cõi A Tu La, theo chiều xuống, nỗi khổ ở mỗi cõi cứ tuần tự gấp bội
hơn lên. Trong sáu cõi, chúng sanh sống chết xoay vần hết nơi này đến nơi kia,
như bánh xe chuyển lăn không đầu mối. Đại khái sanh lên cõi trời cõi người thì
khó và ít, đọa xuống Tứ Ác Thú rất dễ và nhiều. Người xưa đã than:
Lục đạo xoay vần không mối hở.
Vô thường xô đến vạn duyên buông!
Khi còn tại thế, một hôm đức Phật dùng móng tay vít
lên chút đất, rồi hỏi A Nan: “Đất ở móng tay ta sánh với đất ở miền đại địa,
cái nào nhiều hơn?”Ngài A Nan đáp: “Bạch Thế Tôn! Đất của miền đại địa nhiều
hơn đất của móng tay vô lượng phần không thể thí dụ!” Phật bảo: “Cũng thế, A Nan!
Chúng sanh sanh lên cõi trời người, như đất ở móng tay, đọa xuống ác thú, như
đất của miền đại địa!” Thí dụ trên là những tiếng chuông mai để cho người tu
xét suy tỉnh ngộ.
Nhiều kẻ không tin thiên đường, địa ngục, nhưng các
cõi ấy xác thật là có, trong kinh đức Phật đã chỉ bày rành rẽ, chỉ vì mắt phàm
không thấy biết mà thôi. Gần đây nhật báo có đăng nhiều chuyện thuộc phần siêu
linh, chẳng hạn như việc ông Hai Huệ bị bắt xuống âm ty. Lại cô Ba Cháo Gà ở
chợ Vòng Nhỏ tại Định Tường cũng tường trình việc hình phạt ở âm phủ trong
quyển Địa Ngục Ký. Đây có lẽ là chư Thiện Thần vì thấy người trần thế chìm
trong biển tham sân si, nên dùng quyền cơ đưa người xuống địa ngục, để khi trở
về nhơn gian thuật lại cho quần chúng biết đường tội phước, mà dứt dữ làm lành.
Tóm lại, ba cõi đều vô thường, các pháp hữu vi không
có chi là vui (Tam giới giai vô
thường. Chư hữu vô hữu lạc - Kinh Pháp Hoa). Người niệm Phật
phải cầu sanh về Tây Phương để thoát vòng sống chết luân hồi; lần lần tu chứng
đến cảnh thường, lạc, ngã, tịnh của Niết Bàn, chớ không nên cầu sự phước lạc hư
giả ở thế gian. Niệm Phật như thế mới hợp với mục đích giải thoát, với tâm từ
bi cứu khổ ban vui của đức Thế Tôn. Và muốn được như vậy hành giả phải thường
quán sát suy tư về Bát Khổ của kiếp người cho đến nỗi khổ vô tận vô biên trong
sáu cõi. Nếu chẳng quán như thế, thì tâm cầu giải thoát khó sanh, ý nguyện về
Tây Phương không thiết, làm sao ngày kia bước lên bờ Giác, dùng con thuyền Bát
Nhã độ khắp bến mê? Khi xưa đức Phật đã than: “Trong đời mạt pháp, các đệ tử ta
chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít ai quan niệm đến vấn đề sanh tử!” Không tha
thiết đến sự liễu thoát sanh tử là vì thiếu tri giác, do bởi không thiết thật
quán xét nỗi khổ trong kiếp luân hồi. Những người này chẳng những phụ ơn Phật,
mà cũng phụ cả chính mình, thật đáng tiếc thương đau xót!
Niệm
Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Nguyên Nhân Gì Phát Sinh
Tam Tai?
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Tam tai gồm có hai loại là đại tam tai
và tiểu tam tai. Đại tam tai là ba tai họa lớn về lửa, nước và gió. Tiểu tam
tai là ba tai họa nhỏ về chiến tranh, đói kém và bệnh dịch. Đó cũng tức là tai
kiếp. Trong một đại kiếp thì có bốn trung kiếp, gồm thành, trụ, hoại, và không.
Mỗi trung kiếp lại có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi
trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh
trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên
nhân phát sanh đại tam tai.
KHAI-THỊ CHỖ HƯ-VỌNG CỦA BẢY LOÀI
ĐỂ KHUYẾN-KHÍCH TU-HÀNH CHÍNH-PHÁP
"A-nan, xét-rõ bảy loài địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, người và thần-tiên, trời và A-tu-la như thế, đều là những tướng hữu-vi tối-tăm, giả-dối tưởng-tượng thụ-sinh, giả-dối tưởng-tượng theo nghiệp; đối với tâm-tính Diệu-viên-minh, bản-lai không năng-tác, sở-tác, thì đều như hoa-đốm giữa hư-không, vốn không dính-dáng; chỉ một cái hư-vọng, chứ không có cỗi-gối manh-mối gì.
"A-nan, những chúng-sinh đó, không nhận được tâm-tính bản-lai, chịu cái luân-hồi như thế trong vô-lượng kiếp, mà không chứng được chân-tính thanh-tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba cái đó, thì lại sinh ra không-sát, không-đạo, không-dâm; có, thì gọi là loài quỷ, không, thì gọi là loài trời; có và không thay nhau, phát-khởi ra tính luân-hồi.
"Nếu khéo tu-tập phát-huy phép Tam-ma-đề, thì trong bản-tính thường-diệu, thường-tịch, cả hai cái có, cái không đều không và cái không có, không không cũng diệt, còn không có gì là bất-sát, bất-đạo, bất-dâm, làm sao lại còn thuận theo được những việc sát, đạo, dâm.
"A-nan, không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng-sinh đều có phần riêng, nhân những cái riêng ấy, mà quả-báo đồng-phận-chung của các cái riêng, không phải là không chỗ nhất-định; đó là do vọng-kiến của tự mình phát-sinh ra; hư-vọng phát-sinh vốn không có nhân, không thể tìm-xét nguồn-gốc được.
"Ông khuyên người tu-hành, muốn được đạo Bồ-đề, cốt-yếu phải trừ tam-hoặc; tam-hoặc không hết, thì dầu được thần-thông, cũng đều là những công-dụng hữu-vi của thế-gian; tập-khí mê-lầm đã không diệt, thì lạc vào đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại càng thêm giả-dối; Như-lai bảo là rất đáng thương-xót. Như thế, đều do vọng-kiến tự mình tạo ra, không phải là lỗi của tính Bồ-đề.
Nói như thế ấy, tức là lời nói chân-chính; nếu nói khác thế, tức là lời nói của Ma-vương".
Comments
Post a Comment