Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
239. BÀ RA CHƯỚC YẾT RA BÀ DẠ
婆囉斫羯囉婆夜
PARACAKRABHAYA
Luận nghị tác pháp chuyển diệu luân
Kim Cang đại tướng tức chiến phân
Quân lữ thính mạng can qua chỉ
Binh nhung giải giáp khánh thăng bình.
論議作法轉妙輪
金剛大將息戰氛
軍旅聽命干戈止
兵戎解甲慶昇平
Discussions and Dharma deeds keep
the wonderful wheel turning.
Vajra generals appease the
war-like atmosphere.
Troops obey orders, and armed
conflicts are stopped.
Weapons and armor are thrown off;
celebrations of peace ensue.
PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG
Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
ŌM! BÀ RA CHƯỚC YẾT RA BÀ DẠ
If we want the world to be free of war, we should always recite this line of the mantra.
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Năm Thứ Mười Ba niên
hiệu Đại Nghiệp, Đức
Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến
Cát Châu thì gặp bọn cướp vây thành bảy tuần (bảy mươi ngày) chẳng lui tan, mọi
người đều sợ hãi.
Tổ thương xót, dạy bày
niệm MAHA PRAJNA PARAMITA (Ma
Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.) Khi ấy, bọn cướp nhìn lên trên thành như có thần binh, bèn
bảo nhau:
“Trong thành ắt có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn lần lần bỏ đi.
Phật
Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích
Thiền Tâm
Tiết III: Ý Nghĩa
Và Các Yếu Ðiểm Về Nhân Quả
Nhân-quả là gì? Nhân là nguyên
nhân, Quả là kết quả, nguyên nhân gây thế nào, kết quả ra thế ấy. Người xưa đã
bảo: “Muốn làm việc gì, trước phải bình tĩnh nghĩ đến kết quả về sau của nó”.
Nếu mỗi Phật-tử biết lấy câu nầy làm điều tâm niệm, tất sẽ tránh được nhiều lỗi
lầm thất bại trên đường đạo cũng như đường đời.
Nói theo lối khác, Nhân là hạt
giống, Quả luận với tánh cách rộng hơn, là hoa trái. Gieo trồng hạt giống thuộc
hoa trái nào, tất sẽ được hoa trái ấy. Một vị thiền-sư cũng khuyên dạy:
“Xem hết kinh Di-Ðà.
Tụng xong chú Ðại-Bi.
Trồng dưa thì được dưa.
Trồng đậu lại được đậu.
Kinh chú vẫn quý lành.
Kết oán làm sao cứu?
Soi lại lòng bản lai.
Người tạo, người phải chịu.
Mình làm mình thọ quả”.
Mấy lời trên đây không phải phủ
nhận oai lực của kinh chú. Nhưng chủ ý của thiền-sư là để nhắc nhở cho những
người: một phương diện thì ăn chay tụng kinh trì chú, phương diện khác lại sát
sanh gian xảo lường gạt; hay chỉ biết làm lành, cúng dường, bố thí bên ngoài,
nhưng không biết dứt trừ tâm niệm tham lam, ích kỷ, tật đố, si mê, độc ác bên
trong. Một đàng tu thiện, một đàng tạo ác như thế, nghiệp thì dễ tạo, phước lại
khó tu, lấy công trừ tội sợ e không rồi, làm sao tiêu giải oan kết cho được?
Những kẻ gây hạnh nghiệp như thế, rồi trở lại trách Phật, Bồ-Tát sao không cứu,
trách kinh chú sao không linh nghiệm, chẳng hóa ra là sai lầm lắm ư?
Nhân tiện lại xin bàn thêm một việc, trong giới Phật-tử có hai hạng người: Một hạng thuần tín ngưỡng, chỉ cực đoan nương tựa nơi tha-lực, tức là cầu sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ-Tát, không kiểm điểm sửa đổi tâm hạnh của mình. Một hạng duy y cứ nơi tự-lực, cho rằng mình làm lành sẽ được kết quả lành, không cần sức giúp đỡ của chư Phật, Bồ-Tát, nghĩa là không ỷ lại nơi tha-lực. Cả hai quan niệm đó đều sai lầm. Về hạng trước, tuy chư Phật, Bồ-Tát có bi tâm, bản nguyện cứu độ chúng-sanh; nhưng ít nữa hành giả phải tự-lực cố gắng một phần nào, sự giúp đỡ ấy mới có công hiệu, nếu chẳng thế thì các hiền-thánh cũng đành không phương cứu trợ. Ví như một sinh viên thường siêng năng cố gắng chăm học, thầy bạn mới có thể chỉ bảo giúp đỡ thêm được; nếu mãi biếng nhác lêu lổng, thì cha mẹ, sư hữu cũng vô kế khả thi. Cho nên Tịnh-độ-tông và Mật-tông tuy thuộc về Tha-lực pháp-môn, nhưng muốn đạt được kết quả, hành giả cần phải cố gắng nhiều trên phương diện tự-lực. Về hạng sau, tuy tự-lực của mình là cần thiết, nhưng cũng cần có tha-lực hộ trì mới mau đạt được kết quả. Ví như một học sinh tuy siêng năng chăm chỉ, nhưng nếu được thầy hay bạn tốt thường giúp đỡ, thì sự học sẽ tăng tiến biết bao nhiêu!
Vì thế, nên Thiền-tông tuy chú trọng về tự-lực, nhưng vì sợ hành giả khó giữ tâm trước cảnh Ngũ-ấm-ma, cho đến bậc phá trừ Tưởng-ấm chứng quả A-na-hàm, trong một giây phút sơ hở còn có thể bị thiên-ma làm cho sa đọa, nên Đức Phật ân cần khuyên phải trì chú Lăng-Nghiêm để nhờ sự hộ trì của tha-lực. Lại vì e bậc A-la-hán ở yên nơi cảnh hóa thành mà quên đến miền bảo sở, chỉ lo tự-độ mà chán việc lợi-tha, Ðức Thế-Tôn mới khuyến tấn, quở là giống khô, mộng héo. Cho đến bậc Bồ-Tát khi chứng lên ngôi Bất-động-địa, thấy thế-giới mười phương như huyễn, lặng lẽ tợ không hoa, thường sanh quan niệm an trụ nơi tịch tĩnh. Ðức Như-Lai e hành giả Đại-thừa say chìm trong cảnh đó, nên hiện thân khuyến tấn nhắc cho nhớ lại bản nguyện độ sanh, để đương nhơn tiến lên cực quả. Vậy Thiền-tông đâu phải không cần đến tha-lực?
Cho nên gọi đạo Phật là tôn-giáo hay
phi-tôn-giáo, thần-quyền hay phi-thần-quyền, đều không đúng. Phật-giáo là
Phật-giáo, là toàn thể pháp-giới, gồm đủ mọi mặt. Quảng-Nghiêm đại-sư, một vị
thiền-đức Việt-Nam, khi thị tịch có câu: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí. Hưu
hướng Như-Lai hành xứ hành” (Tung trời là chí tài trai đó. Hà tất theo đuôi
Phật mới lành!) Hai câu nầy chẳng qua là để nung thêm ý chí tự cường của người
tu mà thôi. Hành giả đừng nên hiểu lầm, vội bác sự hướng dẫn của chư Phật, Tổ,
rồi sanh tâm tự cao mà đắc tội, nhất là đối với bậc trung, hạ căn.
Sở dĩ có đoạn trên đây, là bút
giả muốn khuyên nhắc sự sai lầm của những hành nhơn duy biết ỷ lại vào tha-lực
mà quên việc nhân-quả tiến tu của mình. Và một hạng người cầu cao, chỉ y cứ nơi
nhân-quả của tự-lực mà khinh thường sự kiện hữu ích rất cần thiết của tha-lực.
Trở lại phần chính của bài nầy,
về phương diện nghiệp Nhân, trong kiếp sống, loài hữu-tình khi gây nhân có ba
điều khái yếu: Phước-nghiệp, Phi-phước-nghiệp và Bất-động-nghiệp. Phước-nghiệp
là những nhân lành như kính thờ Tam-bảo, bố thí, phóng sanh... Phi-phước-nghiệp
là những nhân ác, như khinh báng Tam-bảo, bất hiếu với song thân, cùng những
điều giết, trộm, dâm, vọng... Bất-động-nghiệp là những nhân thiền-định, như
thế-gian-thiền, ngoại-đạo-thiền, xuất-thế-gian-thiền...
Ba nghiệp nhân trên phát sanh
từ thân, ngữ, ý. Nhân lành của thân là giữ những giới không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm, đoan chính trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, mắt
không đắm sắc, tai không nhiễm thanh... Nhân lành của ngữ là không nói dối,
không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không nói thô ác, không nói vô ích,
không nói lời hí hước, không khen mình chê người, thường dẫn chuyện nhân-quả
với tánh cách nêu gương để khuyên nhắc kẻ khác. Nhân lành của ý là không tham
lam bỏn sẻn, tật đố, không giận dữ hờn oán sâu độc, không si mê tà kiến. Nếu
thân, ngữ, ý không làm những việc như trên, lại tạo thêm các điều thiện, gọi là
ba nghiệp lành. Trái lại, là ba nghiệp ác. Tóm tắt, về phần “Nhân”, nơi phát
sanh không ngoài thân, ngữ, ý, và chỗ tạo tác không ngoài Phước, Phi-phước cùng
Bất-động-nghiệp.
Theo lời Phật dạy, trong ba
nghiệp, khẩu nghiệp dễ tạo hơn cả. Người xưa đã bảo “Ða ngôn đa quá”, nghĩa là
“nhiều lời tất nhiều lỗi”. Vì thế người tu nên ít nói, và khi thốt ra lời gì
phải dè dặt suy nghĩ kỹ. Bởi khi nói nhiều, ta không thể kiểm soát hết lời nói
của mình, như thế làm sao cho khỏi điều lầm lỗi; đôi khi gây sự phiền muộn cho
kẻ khác mà ta không hay. Thuở xưa, ngài Mục-Kiền-Liên ngồi thiền định trong
rừng, thấy một vị thần, thân thể đoan nghiêm phát ánh quang minh, nhưng nơi
miệng lại tuôn ra máu mủ, giòi tửa, bay mùi hôi khó chịu. Sáng ra, ngài đem
việc ấy bạch Phật. Ðức Thế-Tôn bảo: “Vị thần đó, tiền thân là một Tỷ-khưu, bởi
giữ thân nghiệp thanh tịnh, nên sắc tướng đoan nghiêm có ánh quang minh; nhưng
vì không khéo gìn khẩu nghiệp, thường buông lời thô lỗ, khen mình chê mắng
người, nên nơi miệng mới có những ác tướng như thế”.
Nếu trong ba nghiệp, khẩu nghiệp
đã dễ tạo, thì ý nghiệp lại có năng dụng mạnh hơn cả. Phàm-phu chỉ có thể kiểm
soát tâm niệm thô của mình, song không thể kiểm soát tâm niệm tế. Ngài Di-Lặc
Bồ-Tát khi nhập định, dùng trí huệ cực thanh tịnh sáng suốt, thấy mỗi
chúng-sanh trong một sát-na có đến ba mươi sáu muôn ức niệm vi tế, mỗi niệm
biến mỗi hình, niệm lành biến tướng lành, niệm dữ biến tướng dữ. Ðiều nầy nhắc
cho ta nhớ, người tu không những giữ gìn nhân-quả nơi thân, khẩu, mà còn phải
dè dặt nhân-quả trong mỗi tâm niệm. Nếu thờ ơ để cho tâm xấu thường nổi lên,
khi dồn chứa lâu ngày, nó có đủ năng lực sai sử ta làm việc quấy, và chịu thân
ác thú trong tương lai.
Một Phật-tử Trung-Hoa, ông Trần-Hải-Lượng, có người bạn tên Hoàng-Ðồng-Sanh. Ðôi mắt cư sĩ họ Hoàng rất lạ, có thể thấy được ma quỷ và điện quang của mỗi người. Theo lời ông, những vị tu hành chân chánh, tâm trong sạch, thì xung quanh mình có vòng ánh sáng sắc trắng mát mẻ dịu dàng. Người giàu, có ánh sáng sắc đỏ. Bậc sang quý, có ánh sáng màu tím. Kẻ buồn rầu thất chí, hoặc đau yếu, có ánh sáng màu xám như khói. Hạng người tầm thường, phần nhiều có ánh sáng màu lục. Ai có điện quang màu đen thì một là người sắp chết, hai đó là kẻ rất độc ác. Và tùy theo tâm niệm tốt xấu, điện quang của mỗi người thay đổi không lường. Ðại khái, người tâm lành ít thì vòng ánh sáng lành nhỏ hẹp; bậc tâm lành hay thanh tịnh nhiều, thì vòng ánh sáng lành rộng lớn. Quang lượng rộng hẹp của kẻ ác cũng như thế.
Cho nên khi ta
khởi một niệm ác, tuy người ngoài không biết, song mình biết, Quỷ-thần biết; còn
những bậc thánh đắc đạo thì thấy rõ ràng như nhìn các lằn chỉ trong bàn tay,
hay nhìn bóng hiện trong gương sáng. Mình biết, thì lương tri tự khiển trách
làm cho hổ thẹn hối hận không yên. Quỷ-thần biết, thì phẫn nộ quở phạt. Chư
Phật, Bồ-Tát khi biết dù xót thương không làm tổn hại, song kẻ gây nhân tất
phải chịu quả, chẳng thế nào tránh khỏi. Từ hành vi đến tâm niệm của ta, sự
phản ứng của luật nhân-quả mỗi mỗi đều rất công minh. Cho nên tiên hiền đã bảo:
“Quả báo của việc lành dữ như bóng theo hình. Khi khởi một niệm lành, tuy phước
chưa đến mà thiện thần đã đến. Lúc sanh một niệm dữ, tuy họa chưa tới mà ác quỷ
đã theo”. Mấy lời nầy rất phù hợp với lý nhân-quả của đạo Phật.
Như trên đã nói khái quát về
phần Nhân, kế lại xin bàn tổng quát về phần Quả. Quả báo tuy nhiều, song có thể
tóm tắt trong mười hai điểm:
1. Hiện-báo: Ðây là
quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả.
Quả báo nầy có tánh cách mau, ví như trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ
trong vòng một mùa, một năm đã thu được kết quả. Hiện-báo còn gọi là Hoa-báo,
danh từ nầy hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà
đã phát lộ trong thời kết bông. Tục ngữ có câu: “Ðời xưa trả báo thì chầy. Ðời
nay trả báo một giây nhãn tiền”. Hai câu nầy chỉ cho tánh cách của Hiện-báo hay
Hoa-báo.
2. Sanh-báo:
Sanh-báo là gây nhân kiếp nầy, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh
cách hơi lâu, ví như trồng mụn chuối con, hạ thổ năm nay, sang năm mới có trái.
Trong kinh có câu: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ hưởng đời nay.
Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại”. Hai câu nầy có thể
chỉ cho ảnh hưởng của Sanh-báo.
3. Hậu-báo: Ðây là
nói sự gây nhân trong đời nầy, đến ba, bốn, trăm, ngàn hay vô lượng kiếp sau
mới thọ quả báo. Hậu-báo có tánh cách lâu hơn, ví như trồng những loại cây
trong năm nay, đến năm, mười hay đôi ba mươi năm sau mới kết quả. Thuở xưa, khi
Phật còn ở đời, có ông Thi-Lợi-Bật-Ðề đến một trăm tuổi mới cầu xin xuất-gia.
Các vị Trưởng-lão như Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, nhập định quán sát trong vòng 84000
kiếp về trước thấy ông thiếu căn lành nên không cho. Ðến khi Như-Lai đi khất
thực trở về, thấy ông khóc lóc cầu xin, liền chấp thuận. Các vị Trưởng-lão hỏi
duyên cớ. Ðức Thế-Tôn đáp: “Thi-Lợi-Bật-Ðề trước 84.000 kiếp, tiền thân là lão
tiều phu, bị cọp đuổi gấp leo lên cây niệm một câu “Mô Phật”. Do thiện căn ấy
đến nay mới gặp ta, và sẽ được đắc độ. Vì nhân lành kiếp trước của người nầy
quá lâu xa, nên sức đạo nhãn của các ông không thể thấy biết được”. Trong kinh
có bài kệ: “Giả sử trăm ngàn kiếp. Nghiệp đã tạo không mất. Khi nhân duyên gặp
nhau, lại tự chịu quả báo”. Ðại ý bài kệ nầy chỉ cho trường hợp Hậu-báo.
4. Ðịnh-báo:
Ðịnh-báo là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức
nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười. Ví như cái nhà hư
hao chút ít hay nửa phần, còn có thể sửa chữa được; nếu kèo cột tường nóc đều
hư mục, tất phải chờ cho nó hư hoại để làm ngôi khác. Và như bịnh ung thư trong
thời kỳ nhẹ còn có thể chữa được, sang lúc quá nặng duy có phương chờ đến mãn
phần. Cổ ngữ có câu: “Dược y bất tử bịnh. Tửu bất giải chân sầu”. (Thuốc chỉ
trị những bịnh không chết. Rượu không thể giải mối buồn hiện thật). Mấy câu nầy
có thể tượng trưng phần nào cho sự việc trên.
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến
đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả
Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là
định nghiệp. Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích
trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm
người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định
nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ. Cho nên chư Phật có ba việc làm được, ba
việc làm không được, gọi là “Tam năng tam bất năng”. Các điều ấy là: chư Phật
có thể không tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể diệt được
định nghiệp; có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả
việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ những chúng-sanh
vô duyên; có thể độ vô lượng chúng-sanh, song không thể độ hết chúng-sanh giới.
Bởi thế, sức người cố nhiên là hữu hạn, nhưng sức Phật vẫn chưa phải toàn năng.
Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài
dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.
5. Bất-định-báo:
Ðây là nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi được. Như có người trước đã tạo
nghiệp lành, đáng lẽ phải hưởng phú quý trọn đời. Nhưng trong lúc làm quan, nếu
kẻ ấy tham mê tài sắc, ăn của lót, cưỡng hiếp, hãm hại người, thì phước lộc lần
lần tiêu giảm, có thể bị tù ngục, ô danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử. Và như kẻ
kiếp trước kém nhân lành, nên đời nầy thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu
người ấy biết xét lẽ nhân-quả-tội-phước, gắng sửa đổi tâm tánh, hết sức làm
việc phước thiện, thì tội chướng lần tiêu giảm, phước đức lần tăng thêm, có thể
trong hiện tại chính mình hay con cháu sẽ tiến đến cảnh vinh quang. Ví như
trong đời, người tước vị cao mà ỷ thế làm quấy, thì có thể bị cách chức; kẻ có
tội nhưng gắng lập công, có thể đem công chuộc tội, và nếu lập công thêm mãi
tất sẽ được tấn chức thăng quan.
Nghiệp quả của chúng-sanh phần
nhiều đều có tánh cách bất định. Nếu chúng ta biết gắng sức dùng tâm lực để
chuyển nghiệp lực, thì cảnh Thiên-cung, Phật-quốc nào phải không nẻo tiến lên.
“Bụi hồng có lối về hương quốc. Cửa tội không tâm mở dạ đài”, chính là ý nầy
vậy.
6. Cộng-báo: Cộng-báo
là quả báo chung. Như thuở Ðức Thế-Tôn còn ở đời, ba mươi hai người con của bà
Tỳ-Xá-Ly đều bị vua Ba-Tư-Nặc nghi lầm mà giết. Xét theo hiện thời thì dường
như đó là hàm oan. Song thật ra trong tiền kiếp vua Ba-Tư-Nặc là con trâu, ba
mươi hai người kia đều là kẻ trộm. Trong khi con trâu biết mình sắp bị giết,
quỳ xuống rơi nước mắt tỏ ý van xin, nhưng ba mươi hai kẻ trộm quyết tâm sát
hại để ăn thịt. Lúc ấy lại có một bà lão tán thành giúp cho phương tiện nấu
nướng. Bà lão ấy chính là tiền thân của cận sự nữ Tỳ-Xá-Ly. Bà Tỳ-Xá-Ly và ba
mươi hai người con vì đồng gây cộng-nghiệp, nên ba mươi hai đứa con bị giết;
còn bà mẹ bởi kiếp trước tùy hỷ việc ấy, nên hiện tại cũng vương nỗi buồn lây.
Ðiều nầy do Đức Phật thuật lại tiền nhân, nên mối oan kết đôi bên mới được giải
thích.
Lại nữa, trong thời kỳ chiến
tranh nầy, có nhiều người tuy không ra trận tuyến, nhưng cũng bị bom đạn, sự
kinh khủng, cảnh nghèo đói, hoặc nỗi buồn khổ về tử biệt sanh ly. Ðó đều là ảnh
hưởng nặng nhẹ thuộc Cộng-báo, do việc tự mình giết, bảo người giết, hoặc tùy
hỷ sự giết của nghiệp sát sanh từ nhiều kiếp về trước.
7. Biệt-báo: Ðây
cũng gọi Bất-cộng-báo, là quả báo riêng của mỗi cá loại trong loài người hay
loài vật. Chẳng hạn như đồng là chim, nhưng có loại chim quý đẹp như bạch hạt,
anh võ, trĩ, thanh tước, phượng hoàng; có loại chim thường như quốc, cò, sẻ,
én; và loại xấu như chim heo, chim ụt. Lại cũng đồng là loài người, mà có kẻ
xấu, người đẹp, kẻ giàu sang, người nghèo khổ, kẻ ngu tối, người thông minh.
Hoặc như trong cảnh khói lửa tang tóc lan tràn, mà có người vẫn sống đoàn tụ an
vui, hầu như không biết chiến tranh là gì cả. Ðó là những trường hợp thuộc về
Biệt-báo.
8. Cận-tử-báo:
Cận-tử-báo là quả báo lúc sắp chết. Con người khi già yếu sắp chết, những
nghiệp thiện ác từ kiếp nầy hoặc kiếp trước dồn lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc
bình thường. Nếu là nghiệp thiện thì khiến cho người ấy vui vẻ hòa nhã hiền
lương, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo an lành. Như thuộc về nghiệp
ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc sắp
chết đau yếu mê man. Trong đời kẻ tu thiện thì ít, làm ác lại nhiều, nên đa số
người đến lúc lớn tuổi thường đổi tánh; những vị không hiểu lý nầy cho là “già
hay sanh tật”.
Thuở bút giả còn ở chùa
Linh-Thứu, tại xã Thạnh-Phú, tỉnh Ðịnh-Tường, có biết ông hương ấp Nghé. Ông
nầy ưa ăn thịt chó, mỗi tháng trung bình độ sáu con, nên khi ông đi đâu thì chó
sủa dồn đến đó, ai cũng đều biết. Khi ông đau sắp chết, thì tự chui xuống gầm
giường nằm khoanh một góc, lâu lâu lại tru lên như chó. Lúc ấy có người đồng
bạn là chú năm Thiện đến thăm, hỏi: “Anh hương ấp làm chi lạ vậy? Thôi anh lên
giường nằm, đừng để cho bà con chê cười!” Nói chưa xong, thì ông thình lình
nhảy ra táp chú, hình trạng như con chó giận dữ cắn người, may nhờ chú năm lẹ
làng tránh khỏi. Ðây là một việc tượng trưng cho Cận-tử-báo thuộc về nghiệp ác.
9. Thục-vị-thục-báo:
Ðiều nầy là trạng thái của nghiệp báo lúc chưa thuần thục và đã thuần thục.
Tiên đức nói: “Người mang nghiệp ví như người mắc nợ, mối nào mạnh thì nó kéo
lôi trước”. Khi xưa, một hôm Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Có người trọn đời làm
lành mà khi chết bị đọa vào ác đạo, bởi nghiệp lành đời nầy chưa chín muồi,
song nghiệp dữ kiếp trước đã đến lúc thuần thục. Có kẻ trọn đời làm ác nhưng
khi chết sanh lên Thiên-cung, bởi nghiệp ác đời nầy chưa thuần thục mà nghiệp
lành kiếp trước đã đến thời kỳ chín muồi. Việc nhân-quả rất phức tạp, tùy theo
thế lực mạnh yếu mà đến trước hoặc sau. Cho nên các đệ-tử của ta chớ nên thờ ơ,
phải gắng chuyên tu cho đạo nghiệp được tinh thuần. Vì biết đâu, có kẻ tuy đời
nay yên ổn hưởng lạc làm lành, nhưng nghiệp ác những kiếp về trước đã sắp đến
thời kỳ thuần thục!”
Bởi chưa hiểu rõ lý trên, nhiều
vị thấy người làm lành mà chết xấu, kẻ hung dữ lại chết tốt, vội phê bình cho
rằng không có việc nhân-quả-tội-phước, chẳng cũng là sai lầm lắm ư?
10. Chuyển-báo: Chuyển-báo
là những biến trạng khổ vui, do sức tu thiện hay làm ác của đương nhơn. Biến
trạng nầy là sự dồn dập để chuyển đổi những quả báo sắp đến. Như có người làm
đủ những điều ác, song đời sống hiện tại càng thêm an ổn vinh quang. Trong đây
có hai nguyên nhân: Một là do túc phước của họ quá nhiều, tuy có phần tổn giảm
bởi làm ác, nhưng dư phước hãy còn. Hai là do thế lực của nghiệp ác quá mạnh, khiến
cho bao nhiêu phước đời nầy và đời trước đều phát hiện cho kẻ ấy hưởng, để rồi
sẽ chịu quả báo ác đạo ở kiếp sau. Sự kiện Chuyển-báo nơi đây, chính thuộc về
trường hợp thứ hai nầy. Nói theo các cụ bình dân ta, đây gọi là trạng thái “dồn
phước”. Lại có những vị chí tâm tu hành, nhưng lại thường gặp những việc thất
bại, đau yếu, tai nạn, mang tiếng thị phi. Theo tiên đức, đó là do sức tu
thiện, khiến cho chuyển quả báo nặng ác đạo ở đời sau, thành ra quả báo nhẹ
trong hiện tại, để kẻ ấy khi mạng chung sẽ hưởng phước nhơn thiên, hay sanh về
Phật-quốc. Và đây gọi là trạng thái dồn nghiệp.
Nhiều Phật-tử không hiểu lẽ
nầy, khi gắng tu mà gặp việc không may, vội sanh tâm sợ sự niệm Phật tụng kinh,
hoặc thối chí bảo: càng tu nhiều càng có lắm việc phiền phức, rồi lần lần đi
đến sự giải đãi, xin đem một thí dụ để trần thích: như người có bịnh phong hay
ban, uống thuốc vào chất độc bị giải tán, làm cho nước tiểu vàng hoặc cả mình
nổi mẩn đỏ, đó là trạng thái bịnh sắp lành. Việc ấy nên đáng mừng hay là lo sợ?
Kẻ tu hành cũng thế, do công đức tụng kinh niệm Phật, khiến cho nghiệp chướng
phát hiện để tiêu trừ. Nếu có chút ảnh hưởng khổ báo, trong mười phần ta chỉ
còn chịu đôi ba phần, cho nên hành giả đừng lấy việc đó làm nản chí. Và điều
nầy, trong kinh Kim-Cang, Đức Phật cũng đã bảo: “Tu-Bồ-Ðề! Nếu Thiện-nam-tử,
thiện-nữ-nhơn thọ trì đọc tụng kinh nầy mà bị người khinh rẻ, nên biết kẻ ấy
đời trước tội chướng rất nhiều, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo. Do sức tụng kinh,
khiến đời nay bị người chê bai, nên tội chướng đời trước được tiêu diệt, kẻ đó
sẽ đắc quả A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Ðề”.
Trong Tịnh-Ðộ-Thánh-Hiền-Lục có
thuật chuyện ông Ngô-Mao tu hành chân chánh, lúc sắp chết bị giặc đâm bảy
thương. Khi người anh đến, ông bỗng tỉnh lại bảo: “Ðời trước tôi tạo nhiều nghiệp
ác, đáng lẽ phải còn đầu thai làm heo bảy kiếp nữa. Nhưng nhờ đời nầy tôi biết
ăn chay niệm Phật, nên phải chịu bảy vết thương để trả bảy kiếp làm heo ấy.
Hiện thời tôi sắp sanh về Tịnh-độ”. Cứ theo việc ông Ngô-Mao, kẻ không biết cho
là tu hành mang họa. Nhưng chỉ chịu bảy vết thương trả xong bảy kiếp làm heo,
để rồi được sanh về Cực-Lạc; nếu so lại thì việc tu hành đâu phải luống uổng,
và công đức niệm Phật chính thật không thể nghĩ bàn! Nhưng tu hành không phải
mỗi người đều bị chuyển-báo, nếu kẻ có căn lành từ kiếp trước thì càng tu càng
được an vui. Hành giả đừng in trí theo một phương diện trên mà sanh lòng e
ngại.
11. Thế-gian-báo:
Ðây là những quả báo khổ vui trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô-sắc. Nguyên nhân
chánh của sự lưu trệ trong tam giới, là vì khi gây nhân chúng-sanh còn chấp
ngã. Chẳng những thế gian và ngoại-đạo mà các vị tu theo chánh giáo, nếu chưa
dứt hết tâm chấp ngã, còn tham nhiễm lục trần, cũng vẫn còn ở trong vòng
luân-hồi sáu nẻo. Tuy nhiên, những sở hành theo Phật-pháp đều gây nhân duyên
đắc độ về sau, nhưng kiếp tương lai trong khi tu, điểm chánh yếu của sự giải
thoát vẫn là điều kiện dứt ngã chấp. Trong truyện ký nhà Phật có chép việc một
ni-cô tụng kinh Pháp-Hoa ba mươi năm, nhưng tâm còn nhiễm thanh sắc, nên kiếp
sau chuyển làm nàng kỹ nữ thanh sắc vẹn toàn; nơi miệng thường bay ra mùi thơm
hoa sen. Tại Việt-Nam, đời nhà Lê, một vị sư tu Tịnh-độ ở chùa Quang-Minh, bởi
tâm lợi danh chưa sạch, nên kiếp sau chuyển sanh làm vua Khang-Hy bên
Trung-Hoa. Khi được biết tiền nhân, nhà vua viết mấy bài thi hoài cảm, trong ấy
có hai câu: “Ngã bản Tây-phương nhất Phật-tử. Vân hà lạc tại đế-vương-gia?” (Ta
vẫn là con của Phật A-Di-Ðà ở Tây-phương. Tại sao nay lại lạc vào giòng vương
thất?)
Ðời Tống bên Trung-Hoa,
Giới-Diễn và Quang-Huệ đại-sư đồng tu thiền, song Giới-Diễn vì còn chút tâm
niệm luyến sắc, nên kiếp sau đầu thai làm nhà văn hào lỗi lạc, đa tài mà cũng
đa tình, là Tô-Ðông-Pha. Sau khi được ngài Quang-Huệ chuyển kiếp làm Phật-Ấn
thiền-sư để hóa độ Tô-Ðông-Pha trở lại đường tu; có lẽ nhớ biết những kiếp về
trước, nên lúc lớn tuổi, trong cuộc tái du thăm viếng chùa Kim-Sơn, ông đã viết
mấy câu thi:
Kim-Sơn chùa núi gần mây nước
Tóc bạc Ðông-Pha lại đến đây.
Tiền kiếp Ðức-Vân, nay chính tớ
Mơ màng còn nhớ Diệu-Cao-đài!
12. Xuất-thế-gian-báo: Thế-gian-báo
là quả báo thuộc lục-phàm. Trái lại, xuất-thế-gian-báo là quả báo của tứ-thánh:
Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát và Phật. Quả báo tứ-thánh do bởi khi tu lìa
ngã-chấp mà được thành tựu. Trong hạnh vô-ngã nầy, hàng Nhị-thừa hãy còn hẹp,
song Bồ-Tát thừa thì rất rộng rãi nhiệm mầu. Bồ-Tát chẳng những tu
tam-vô-lậu-học của pháp xuất-thế-gian, mà còn làm tất cả việc từ thiện của thế
gian. Tâm của Bồ-Tát không thấy có sở đắc sở chứng; không có tướng ngã, nhơn,
chúng-sanh, thọ giả; tuy độ vô lượng hữu-tình nhưng không thấy mình là người
hóa độ, chúng-sanh là kẻ được độ; tuy quanh mình thị hiện vô biên quyến thuộc,
nhưng lòng hằng vắng lặng không thấy có quyến thuộc; tuy tu vô lượng phước đức,
nhưng không thấy mình có phước đức. Ðây là hạnh vô tướng. Người biết thực hành
hạnh vô tướng, dù là làm việc thiện thế gian, song đều thành kết quả giải
thoát. Bằng trái lại, tuy tu thánh-đạo, cũng hóa ra phước báo thế gian. Về hạnh
vô tướng nầy, trong kinh Kim-Cang, có đoạn Đức Phật dạy: “Nầy Tu-Bồ-Ðề! Như có
vị Bồ-Tát dùng số lượng thất bảo đầy cả hằng-hà-sa thế-giới để bố thí. Nếu lại
có người biết tất cả pháp đều vô ngã, được thành vô sanh nhẫn, thì công đức của
vị Bồ-Tát sau nầy hơn bậc Bồ-Tát trước kia. Tại sao thế, Tu-Bồ-Ðề? Bởi thật ra,
chư Bồ-Tát đều không thọ phước đức”. Tu-Bồ-Ðề thưa: “Bạch Thế-Tôn! Sao gọi là
Bồ-Tát không thọ phước đức?” - Nầy Tu-Bồ-Ðề! Vì Bồ-Tát tuy làm những việc phước
đức, song chẳng tham trước, nên ta nói không thọ phước đức!”
Thông thường hàng Phật-tử
tại-gia khi mới quy-y, duy thích cúng dường chùa mình, phụng sự thầy của mình,
hay chỉ làm những Phật-sự mà họ cho là có công đức hơn việc thế gian. Nhưng nếu
họ hiểu rộng hơn, vừa dùng tâm bình đẳng phụng sự Tam-bảo, vừa làm các việc từ
thiện ở đời, như giúp đỡ kẻ nghèo khổ đau yếu, chu cấp cho hàng quả phụ cô nhi,
rồi đem công đức ấy hồi hướng về Tịnh-độ cùng đạo Vô-thượng-bồ-đề, thì tất cả
việc làm lành đều đi đến kết quả giải thoát cả.
Tóm lại, sự lý nhân-quả thật vô lượng, chuyển biến chập chồng, có thể gọi là khó bàn khó nghĩ. Nhưng về Nhân không ngoài sự hơn kém của nghiệp thân, ngữ, ý qua ba hạnh Phước, Phi-phước và Bất-động. Về Quả lại tổng quát trong mười hai điều trên. Nếu nắm được mấy điểm chánh yếu như đã kể mà suy rộng ra, về vấn đề nầy, người học Phật có thể hiểu quán xuyến tất cả.
Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh
Như-Ý Giảng giải
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
BÀI SỐ 88
Ẩn tu thế chiến BIẾT kỳ ba
Nước lửa sơn lâm khắp hải hà
Mấy cuộc lọc thanh đầy huyết-lệ
Bay hồn thảm khổ, lướt khôn qua.
NHƯ Ý : Có nhiều kẻ bảo: “CHIẾN-TRANH NGUYÊN-TỬ không thể xảy ra, vì sẽ gây cuộc tàn phá LỚN LAO, mà không ai THẮNG ai BẠI.”
Nhưng theo CHÂN-LÝ thì có NHÂN-SÁT tức có QUẢ-SÁT, dù rằng NHÂN LOẠI cố gắng HẠN CHẾ không cho xảy ra.
3. Linh Văn Cứu Giúp Thế Giới Tránh Khỏi Ngày Tận Thế
Trên đời, nếu có một người biết niệm Chú Lăng Nghiêm,
thì thế giới này sẽ không bị hủy diệt, giáo pháp cũng sẽ không bị diệt vong.
Hiện tại tôi giảng Chú Lăng Nghiêm cho quý vị nghe, Chú Lăng Nghiêm này trong trăm ngàn vạn kiếp cũng chưa có ai giảng được một lần, mà cũng không dễ gì giảng được một lần. Lúc tôi giảng cho quý vị, tôi biết là không có ai nghe mà liền hiểu được ngay cả. Cho dù có người tự cho rằng mình hiểu được, thì đó cũng không phải là thực sự hiểu. Có người tự cho là mình đã hiểu rồi, cho nên không chú ý nghe, thì đó cũng giống như không hiểu vậy. Chú Lăng Nghiêm là linh văn cứu giúp cho trời đất không bị hủy diệt. Chú Lăng Nghiêm cũng là linh văn cứu giúp thế giới tránh khỏi ngày tận thế. Cho nên, tôi thường nói rằng, trên đời này nếu có một người biết niệm Chú Lăng Nghiêm, thì thế giới này sẽ không bị hủy diệt, giáo pháp cũng không bị diệt vong. Đợi đến lúc thế giới không còn có ai biết niệm Chú Lăng Nghiêm nữa, bấy giờ Phật Pháp đành phải bị diệt vong!
Hiện tại đã có một số thiên ma ngoại đạo, ngông cuồng tung ra lời đồn đại rằng Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm đều là giả, là ngụy tạo. Đó chính là con cái cháu chắt của loài ma do các thiên ma ngoại đạo phái đến để tung ra những lời đồn đại ngông cuồng này, khiến cho người ta không còn tin tưởng vào Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm nữa. Đến lúc người người đều không còn tin tưởng Chú Lăng Nghiêm, thì sẽ không có ai niệm Chú này nữa, bấy giờ thế giới này sẽ mau chóng bị hủy diệt! Nếu muốn thế giới không bị diệt vong, thì quý vị hãy nhanh chóng niệm Chú Lăng Nghiêm, đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm. Nếu quý vị có thể ngày ngày niệm Chú Lăng Nghiêm, thì sự nguy hiểm của bom nguyên tử, bom khinh khí cũng sẽ không thể xảy đến cho quý vị. Vì thế, quý vị nên nhất tâm niệm Chú Lăng Nghiêm.
Hiện tại tôi giảng Chú Lăng Nghiêm cho quý vị, thì ngay lúc này đây, có thể không có một người nào hiểu được, nhưng mười năm, một trăm năm, hoặc một ngàn năm sau, có người đọc được những chú giải đơn sơ cạn cợt này của tôi, biết đâu lúc đó họ sẽ hiểu được một cách rõ ràng sâu sắc hơn về Chú Lăng Nghiêm. Quý vị được nghe Chú Lăng Nghiêm rồi, thì không nên vội cho rằng điều này là quá dễ dàng. Bốn câu kệ tụng này xem ra thì rất đơn giản, nhưng đó là những gì từ trong tâm tánh tôi lưu xuất ra, hoàn toàn không phải là do tôi sưu tầm, trích dẫn, hoặc sao chép từ các sách vở khác. Quý vị theo học với tôi, bất luận là kệ tụng hay hay dở, đó đều là theo cách nhìn của tôi—tôi y theo những hiểu biết về Chú Lăng Nghiêm của tôi mà viết ra. Nếu quý vị muốn thật sự hiểu được Chú Lăng Nghiêm, thì phải chú ý học hỏi, chớ để thời gian trôi qua lãng phí!
LINH VĂN CỦA TRỜI ĐẤT CỨU THẾ GIỚI
© 2018
Vạn Phật Thánh Thành
Tán lễ Thích-Tôn:
Vô thượng năng nhơn.
Tăng kỳ cửu viển tu chơn.
Ðẩu suất giáng thần,
Trường từ bửu vị kim luân, tọa Bồ-đề tòa đại phá ma quân.
Nhứt đổ minh-tinh đạo thành, giáng pháp lâm.
Tam thừa chúng đẳng qui tâm.
Vô sanh dĩ chứng.
Hiện tiền chúng đẳng qui tâm.
Vô sanh tốc chứng.
Tứ sanh cửu hữu, đồng đăng hoa tạng huyền môn,
bát nạn, tam đồ cộng nhập tỳ lô tánh hải.
NAM-MÔ TA BÀ THẾ-GIỚI, TAM GIỚI ĐẠO-SƯ, TỨ SANH TỪ-PHỤ,
NHƠN THIÊN GIÁO CHỦ THIÊN BÁ ỨC HÓA THÂN
BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
ÐÁT ĐIỆT THA
1) ÁN
2) A NA LỆ
3) TỲ XÁ ĐỀ
4) BỆ RA
5) BẠT XÀ RA
6) ÐÀ RỊ
7) BÀN ĐÀ BÀN ĐÀ NỂ
8) BẠT XÀ RA BÁN NI PHẤN
9) HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG PHẤN
10) TA BÀ HA.
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(108 lần)
Comments
Post a Comment