Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
313. CA BA RỊ CA
迦波唎迦
KĀPĀLIKA
Độc
lâu ngoại đạo chúng thần tiên
Xả
khử ngũ dục chư ác quyên
Phụng
hành thập thiện cần tiên sách
Xuất
huyền nhập tẫn hóa vạn thiên.
髑髏外道眾神仙
捨去五欲諸惡蠲
奉行十善勤鞭策
出玄入牝化萬千
Tụng câu chú nầy, thì khiến QUỶ-THẦN lìa NGŨ DỤC tu THẬP THIỆN.
ĐỐI TRỊ DỤC NHIỄM
Các phiền não về tham không ngoài sự đắm nhiễm ngũ
dục lục trần. Từ cội gốc tham, sanh ra các chi tiết xấu khác như: bỏn sẻn, ganh
ghét, lường gạt giả dối... gọi là “tùy phiền não”. NGŨ DỤC, chỉ cho năm món nhiễm gồm: sắc dục, tiền của, quyền danh, ăn mặc, ngủ nghỉ. Lục trần là: sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong lục trần đã thâu nhiếp ngũ dục, nhưng sở dĩ
lập riêng danh từ ngũ dục, là muốn nêu ra năm món nhiễm nặng của chúng sanh
trong cảnh lục trần. Lục trần nói với tánh cách bao quát, ngũ dục với tánh cách
đặc biệt. Nơi đây nói thêm lục trần là để chỉ cho các thứ nhiễm khác mà trong
ngũ dục không có như: thích âm nhạc ca hát, mê tiểu thuyết nhảm nhí v.v...
Khi tâm tham nhiễm ngũ dục lục trần khởi động, cách
đối trị tổng quát, là nên quán sát thuần thục bốn lý: Bất Tịnh, Khổ, Vô Thường,
Vô Ngã.
1. "Bất Tịnh" là chỉ cho thân không sạch, tâm không sạch,
và cảnh không sạch. Thân không sạch, là phải quán xét thân ta và người bên
ngoài nhờ có lớp da che giấu, bên trong chỉ toàn những thứ hôi tanh nhơ nhớp
như: thịt, xương, máu, mủ, đờm, dãi, phẩn, nước tiểu v.v... Đã thế mà các thứ
nhơ nhớp bên trong còn bài tiết ra cửu khiếu bên ngoài. Suy xét kỹ, sắc thân
của chúng sanh không có chi đáng ưa thích. Tâm không sạch, là khi tâm sanh tham
nhiễm tất nó đã thành xấu xa nhơ bợn, chẳng khác chi hồ nước trong bị cáu bùn
làm bẩn đục. Hồ nước đục không thể soi bóng sắc cây núi trời mây, tâm nhơ bợn
mất hết thần thông trí huệ. Nên nhớ câu:
Người đã phát nguyện bước lên đường tu, phải lập chí
lần lần dứt trừ tâm phiền não nhiễm dục từ thô đến tế. Cảnh không sạch, là cảnh
giới cõi ngũ trược này dẫy đầy bùn đất, đá sỏi, chông gai, lại dung chứa vô số
chúng sanh từ thân đến tâm đều nhơ bợn. Cho nên cảnh Uế Độ này không có chi
đáng say mê tham luyến.
2. "Khổ" là chỉ cho thân
khổ, tâm khổ và cảnh khổ. Thân khổ, là thân này đã nhơ nhớp, lại bị sự sanh già
bịnh chết, nóng lạnh, đói khát, vất vả cực nhọc chi phối, làm cho khổ sở không
được tự tại an vui. Tâm khổ, là khi tâm ta khởi phiền não, tất bị lửa phiền não
thiêu đốt, giây phiền não trói buộc, roi phiền não đánh đuổi sai khiến, khói
bụi phiền não làm tăm tối nhiễm ô. Cho nên người nào khởi phiền não tất kẻ đó
thiếu trí huệ, vì tự làm khổ mình trước nhứt. Cảnh khổ, là cảnh này nắng lửa
mưa dầu, chúng sanh vất vả trong cuộc mưu sinh, mỗi ngày ta thấy trước mắt diễn
đầy những hiện trạng nhọc nhằn bi thảm.
3. "Vô Thường" là thân vô thường, tâm vô thường và cảnh vô thường. Thân vô
thường là thân này mau tàn tạ, dễ suy già rồi kết cuộc sẽ phải đi đến cái chết.
Người xưa đã than:
Mưu lược dõng mãnh như Văn Chủng, Ngũ Tữ Tư; sắc đẹp
dễ say người như Tây Thi, Trịnh Đán, kết cuộc:
Tâm vô thường, là tâm niệm chúng sanh thay đổi luôn
luôn, khi thương giận, lúc vui buồn. Những niệm ấy xét ra huyễn hư như bọt
nước. Cảnh vô thường, là chẳng những hoàn cảnh xung quanh ta hằng đổi thay biến
chuyển, mà sự vui cũng vô thường. Món ăn dù ngon, qua cổ họng rồi thành không;
cuộc sum họp dù đầm ấm, kết cuộc cũng phải chia tan; buổi hát vui rồi sẽ vãng;
quyển sách hay, lần lượt cũng đến trang cuối cùng.
4. "Vô Ngã" nghĩa là không có
ta, không tự thể, tự chủ. Điều này cũng gồm có thân vô ngã, tâm vô ngã và cảnh
vô ngã. Thân vô ngã là thân này hư huyễn không tự chủ, ta chẳng thể làm cho nó
trẻ mãi, không già chết. Dù cho bậc thiên tiên cũng chỉ lưu trụ được sắc thân
trong một thời hạn nào thôi. Tâm vô ngã, chỉ cho tâm hư vọng của chúng sanh
không có tự thể; như tâm tham nhiễm, niệm buồn giận thương vui thoạt đến rồi
tan, không có chi là chân thật. Cảnh vô ngã là cảnh giới xung quanh ta như
huyễn mộng, nó không tự chủ được, và bị sự sanh diệt chi phối. Đô thị đổi ra gò
hoang, ruộng dâu hóa thành biển cả, vạn vật luôn luôn biến chuyển trong từng
giây phút, cảnh này ẩn mất, cảnh khác hiện lên.
Khi quán xét từ thân tâm đến cảnh giới đều bất tịnh,
khổ, vô thường, vô ngã, hành giả sẽ dứt trừ được tâm tham nhiễm. Bởi chúng sanh
thiếu mất trí huệ, thường sống trong sự điên đảo, không sạch cho là sạch, khổ
cho là vui, vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã, rồi sanh ra mê say đắm
nhiễm, nên đức Phật dạy phải dùng bốn pháp này để quán phá bốn sự điên đảo đó.
Chẳng hạn như phẩn uế, ta cho là thối tha nhơ nhớp, nhưng loài chó lợn vì
nghiệp mê nhiễm, thấy là thơm sạch ngon, nên đua nhau tranh giành. Sự dục nhiễm
ở nhơn gian, loài người cho là vui sạch đáng ưa thích, nhưng chư thiên cho là
hôi tanh nhơ nhớp, chẳng khác chi ta thấy loài chó ,lợn ăn đồ ô uế. Sự dục
nhiễm của chúng sanh rất si mê điên đảo đại khái là như thế, nên người tu phải
cố gắng lần lượt phá trừ.
ĐỐI TRỊ THAM VI TẾ
Như trên đã lược nói qua sự tham ngũ dục thô phù dễ
thấy. Ngoài ra còn mối tham nhiễm ẩn sâu vi tế, mà người tu cần phải lưu tâm.
Chẳng hạn như số tiền trăm vạn không làm cho tham, nhưng số bạc triệu tỷ có thể
khiến phải động tâm; sắc đẹp tầm thường dễ dàng lướt qua, song giai nhân tuyệt mỹ có năng lực giục người mê lụy. Cho đến các vị tu mà còn đắm ưa chuỗi tốt; tượng đẹp, hoặc cảnh
giới lành, cũng thuộc về tâm tham nhiễm. Phải nên xem đó là những phương tiện,
hoặc cảnh nhân duyên như huyễn, chớ sanh lòng tham trước. Để phân tích tâm
trạng này, xin đưa ra ba câu chuyện với tánh cách hiểu dụ từ cạn đến sâu:
Thuở xưa bên Trung
Hoa có một vị quan nổi tiếng là thanh liêm, ai đưa vàng bạc lo lót, cũng đều
nghiêm trách không nhận. Nhưng độ nọ, một nhà hào phú vì muốn nhờ giải quyết
việc riêng có tánh cách đặc biệt, nên hối lộ đến mười vạn quan tiền. Vị quan
liền thâu nhận. Sau đó người bạn hỏi duyên cớ, ông đáp: "Số tiền mười vạn
có thể thông cảm với thần minh" (Tiền chí thập vạn
khả dĩ thông thần). Vị quan trên chỉ
có thể thanh liêm được với số tiền nhỏ, nhưng không thanh liêm nổi với số tiền
quá lớn. Đây là lòng tham nhiễm ẩn sâu.
Lại câu chuyện đời Minh. Một hôm Liên Trì đại sư
ngồi nói chuyện với khách tăng. Ông khách than: "Người tu đời nay hầu hết
đều đắm nhiễm về danh lợi. " Đại sư nói: "Tôi thấy Ngài là bậc thanh
khiết, vì từ trước đến nay đã chối bỏ hết danh lợi người ta đem đến cho
mình." Khách tăng nghe xong gương mặt thoáng lộ nét hoan hỉ. Vị tăng này
tuy không thích những danh vọng thông thường, nhưng còn ưa được
tiếng thanh cao tuyệt tục. Đây là tâm tham
nhiễm thâm trầm vi tế.
Thêm một chuyện trong thiền môn. Có bà lão nhiều đạo
tâm, cất ngôi tịnh am lo đầy đủ tứ sự cúng dường ủng hộ một vị tham thiền tu niệm.
Qua hai chục năm, một hôm bà lão dặn bảo cô con gái rằng: "Bữa nay, sau
khi đem cơm cho sư thọ trai xong, con thừa lúc bất ngờ ôm ngay sư mà hỏi:
"Lúc này như thế nào? Sư trả lời ra sao, con vào đây thuật lại cho mẹ
rõ." Cô con gái y như lời, ôm sư gạn hỏi. Sư đáp: "Khô mộc ỷ hàn
nham, tam đông vô noãn khí." Với câu này, ý sư muốn bảo: "Mình chẳng
mảy may động tâm về sắc dục, ví như cây khô nương tựa gộp đá lạnh, lại ở vào ba
tháng mùa Ðông, tìm một chút hơi ấm cũng không có." Cô con gái trở vào
thuật lại, lão bà không vui, bảo: "Thật uổng công ta hai mươi năm lo lắng,
không ngờ chỉ ủng hộ một kẻ phàm phu!" Nói xong, lão bà ra đuổi nhà sư đi,
rồi châm lửa đốt luôn cái am.
Thật ra, tu đến trình độ của sư, đời nay cũng ít có.
Còn lão bà vốn một vị Bồ Tát, hành động đốt am là muốn khai ngộ cho thiền sư.
Tại sao thế? Bởi sư tuy không động tâm về sắc dục, nhưng còn thấy mình thanh tịnh, còn trụ tâm nơi tướng vắng lặng
không không của thiền định, tức chưa được đại
triệt đại ngộ. Để phân tích thêm cho rõ, thiền môn có ba cửa ải phải vượt qua
là: Bản Tham quan, Trùng quan và Lao quan. Người tu thiền tham thoại đầu đến
khi phá được nghi tình, tỏ suốt ý “Tây lai”, nhìn rõ mặt mày trước khi cha mẹ
chưa sanh, tức đã vượt qua cửa ải thứ nhứt, gọi là "Phá Bản Tham". Đến
trình độ này, dù đã dứt được tưởng tâm hư vọng từ vô thỉ, nhưng còn cảnh giới
năng sở đối đãi của quán trí, hãy chưa tuyệt tướng quên tình. Cho nên tuy đã vô
tâm cùng thế sự, nhưng đối với đại đạo vẫn cách một lớp cửa dày dặn trập trùng.
Cổ đức bảo:
Chính là ý này. Nhà sư trên tuy đã đạt đến cảnh giới
khá cao, nhưng hãy còn trụ tâm nơi tịnh tướng. Đây cũng là một sự tham nhiễm vi
tế, mà người tu cần phải dứt trừ.
Người niệm Phật cũng thế. Phải rõ tất cả sắc tướng
đều như huyễn, dù tu đến cảnh giới nhứt tâm, thấy hoa sen báu, các tướng tốt,
hoặc chư Phật Bồ Tát hiện thân, nên biết đó chẳng qua là do nhân lành cảm quả
lành, cứ an nhiên đừng đắm nhiễm tham trước, cũng không nên phủ nhận. Như vậy mới
gọi là hiểu ngộ lý: "Như thật bất
không" của tạng tâm.
Niệm
Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích
Thiền Tâm
NHÂN QUẢ CỦA THẬP
THIỆN
Trong kinh Thập-Thiện-Nghiệp-Ðạo, Đức Phật bảo:
- Nầy Long-vương! Nếu không sát sanh, tất được thành tựu mười pháp ly não. Mười pháp ấy là:
1- Bố thí vô úy cho
tất cả chúng-sanh.
2- Ðối với hữu-tình
thường khởi lòng đại từ.
3- Dứt hết tập khí
giận hờn.
4- Thân thường
không bịnh.
5- Thọ mạng lâu
dài.
6- Hằng được loài
phi nhân thủ hộ.
7- Giấc ngủ yên ổn
không ác mộng.
8- Giải trừ hết oán
thù.
9- Không sợ đọa vào
ác đạo.
10- Mạng chung sanh
lên cõi trời.
Ðó là mười pháp. Nếu
đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ được
thọ mạng tùy tâm tự tại.
- Nầy Long-vương! Nếu không trộm cướp, tất được thành
tựu mười pháp bảo tín. Mười pháp ấy là:
1- Tiền của đầy đủ, không bị vua, giặc, nước, lửa, con hoang phá hoại.
2- Ðược nhiều người yêu mến.
3- Người không khi
phụ.
4- Các nơi đều khen
ngợi.
5- Không lo bị tổn
hại.
6- Tiếng tốt đồn
xa.
7- Ở giữa quần
chúng không sợ hãi.
8- Tài, mạng, sắc,
lực đều tốt, biện tài tham lợi đầy đủ.
9- Hằng có lòng bố
thí.
10- Mạng chung sanh
lên cõi trời.
Ðó là mười pháp. Nếu
đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ chứng
được trí đại bồ-đề thanh tịnh.
- Nầy Long-vương! Nếu không tà hạnh, tất được bốn pháp
mà người trí khen ngợi. Bốn pháp ấy là:
1- Các căn đoan
chánh.
2- Hằng khỏi sự
phiền phức.
3- Ðược mọi người
khen ngợi.
4- Thê thiếp không
bị ai xâm phạm.
Ðó là bốn pháp. Nếu đem
công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ được tướng
trượng phu ẩn mật tàng của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói dối, tất được tám pháp
hàng chư thiên hằng khen ngợi. Tám pháp ấy là:
1- Miệng thường
thơm sạch, có mùi hương Ưu-Bát-La.
2- Ðược tất cả thế
gian tin phục.
3- Lời nói có chứng
thật, trời người kính mến.
4- Hằng dùng ái ngữ
an ủi chúng-sanh.
5- Ba nghiệp thanh
tịnh, được sự vui xứng ý.
6- Lời không lầm
lỗi, tâm thường an vui.
7- Lời nói tôn
trọng, trời người tuân hành.
8- Trí huệ thù
thắng, không ai chế phục được.
Ðó là tám pháp. Nếu đem
công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ được chân
thật ngữ của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói đôi chiều,tất được năm pháp
không thể hoại. Năm pháp ấy là:
1- Ðược thân bất
hoại, người không thể hại.
2- Ðược quyến thuộc
bất hoại, người không thể phá.
3- Ðược lòng tin
bất hoại, sự tu hành kiên cố.
4- Ðược thiện tri
thức bất hoại, không dối gạt nhau.
Ðó là năm pháp. Nếu đem
công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ được quyến
thuộc chân chánh, các ma ngoại-đạo không thể phá hoại.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói lời thô ác, tất được thành
tựu tám pháp tịnh nghiệp. Tám pháp ấy là:
1- Lời nói không
trái độ.
2- Lời nói có lợi
ích.
3- Lời nói khế lý.
4- Lời nói êm đẹp.
5- Lời nói được
vâng thuận.
6- Lời nói được tin
dùng.
7- Lời nói không ai
chê.
8- Lời nói được mọi
người ưa thích.
Ðó là tám pháp. Nếu đem
công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ được đầy
đủ tướng Phạm âm của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không nói thêu dệt, tất được thành
tựu ba pháp quyết định: Ba pháp ấy là:
1- Quyết định được
người trí yêu mến.
2- Quyết định có
thể dùng trí như thật để hỏi đáp.
3- Quyết định có
oai đức tối thắng trong hàng nhơn thiên.
Ðó là ba pháp. Nếu đem
công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ được thọ
ký không hư dối của Như-Lai.
- Nầy Long-vương! Nếu không tham dục, tất được thành
tựu năm pháp tự tại. Năm pháp ấy là:
1- Ba nghiệp tự
tại, các căn đầy đủ.
2- Tài vật tự tại,
tất cả oán địch không thể cướp được.
3- Phước đức tự
tại, tùy tâm mong muốn, các vật đều đầy đủ.
4- Ngôi vua tự tại,
cái nơi đều dâng hiến kỳ trân dị vật.
5- Những vật thu
được còn tốt đẹp hơn ý mong muốn trăm bội phần, do bởi túc nhân không ganh ghét
bỏn sẻn.
Ðó là năm pháp, nếu đem
công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ là bậc tối
tôn trong ba cõi, được tất cả cung kính cúng dường.
- Nầy Long-vương! Nếu không giận hờn, tất được tám pháp
vui đẹp. Tám pháp ấy là:
1- Không có lòng
tổn não.
2- Không có lòng
giận hờn.
3- Không có lòng
tranh kiện.
4- Tâm hằng nhu hòa
chất trực.
5- Ðược tâm từ của
bậc thánh.
6- Tâm hằng nghĩ
đến sự làm cho chúng-sanh được lợi ích an vui.
7- Thân tướng đoan
nghiêm, chúng đều tôn kính.
8- Do lòng hòa
nhẫn, mau sanh về cõi Phạm-Thiên.
Ðó là tám pháp, nếu đem
công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ được tâm
vô ngại, mọi người chiêm ngưỡng không nhàm chán.
- Nầy Long-vương! Nếu không tà kiến, sẽ được thành tựu
mười pháp công đức. Mười pháp ấy là:
1- Ðược bạn chân
thiện, sự vui chân chánh về ý.
2- Tin sâu lý
nhân-quả, thà bỏ thân mạng quyết không làm ác.
3- Chỉ quy-y Phật,
không quy-y thiên thần, quỷ loại.
4- Lòng ngay thẳng
có chánh kiến, xa lìa tất cả lưới nghi.
5- Thường sanh cõi
nhơn thiên, không đọa lạc vào ác đạo.
6- Vô lượng phước
huệ thù thắng ngày càng tăng thêm.
7- Xa lìa đường tà,
hằng đi nơi đường thánh.
8- Không khởi thân
kiến, xả các nghiệp ác.
9- Trụ nơi chánh
kiến vô ngại.
10- Không bị đọa
vào các nạn.
Ðó là mười pháp, nếu
đem công đức ấy hồi hướng quả Vô-thượng-bồ-đề, về sau khi thành Phật, sẽ mau
chứng tất cả Phật-pháp, thành tựu sức thần thông tự tại.
Phật
Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Y Hê Di Hê [36]
NGÀI MA-HÊ-THỦ-LA THIÊN-VƯƠNG
MA-HÊ-THỦ-LA” mãnh hựu hung
Thưởng thiện phạt ác kiến kỳ công
Phổ độ quần mê đăng bỉ ngạn
Hóa lợi hữu tình vô thủy chung.
Hành nhân tu pháp thiết cung đài
Luyện thành quỷ-thần tuân hiệu lệnh
Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài.
Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Comments
Post a Comment