Shurangama Mantra with Verses and Commentary

by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua




279. SÂN ĐÀ DẠ DI

瞋陀夜彌

CCHIN DAYAMI


 

 

Y phụ tội giả trảm kỳ tinh

Như ý bảo luân pháp vương tâm

Ngã kim thủ niệm đệ nhất nghĩa

Liên hoa pháp bộ trú dạ hành.

 

依附罪者斬其精

如意寶輪法王心

我今首念第一義

蓮華法部晝夜行



ŌM! SÂN ĐÀ DẠ DI.


 Câu chú nầy là Pháp Hàng PhụcVì Loài quỷ cũng có pháp thuật và chú thuật để chúng sử dụng. Nhưng nếu quý vị trì tụng ŌM! SÂN ĐÀ DẠ DI, thì sẽ phá tan các loại chú của chúng.  Đây là LIÊN HOA BỘ ở Phương Tây, do đức Phật A Di Đà là Bộ chủ.



Chú Thủ Lăng Nghiêm phân làm năm bộ, biểu thị cho năm phương Phật: Đông, Nam, Trung Ương, Tây và Bắc.




1.  Đông phương là Kim-cang bộ, do đức Phật A Súc là Bộ chủ.


52. NAM-MÔ BẠT XÀ RA CU RA DA

南無跋闍囉囉耶

NAMO VAJRA KULĀYA

Đức Phật Dược Sư


2.  Nam phương là  Bảo-sanh bộ, do đức Phật Bảo sanh là Bộ chủ.


53. NAM-MÔ MA NI CU RA DA

南無摩尼囉耶

NAMO MANI KULĀYA

Đức Phật Bảo Sanh


3.  Trung ương là Phật bộ, do đức Phật Tỳ Lô Giá Na là Bộ chủ.


50. ÐA THA GIÀ ĐA CU RA DA

多他伽跢俱囉耶

TATHĀGATA KULĀYA

Đức Phật Tỳ Lô Giá Na


4.  Tây phương là Liên-hoa bộ, do đức Phật A Di Đà là Bộ chủ,


51. NAM-MÔ BÁT ĐẦU MA CU NA DA

南無般頭摩囉耶

NAMO PADMA KULĀYA

 Đức Phật A Di Đà


5.  Bắc phương là Yết-Ma bộ, do đức Phật Thành Tựu là Bộ chủ.


373. TẦN ĐÀ RA TẦN ĐÀ RA

頻陀囉頻陀囉

VIDARA VIDARA

Đức Phật Bất Không Thành Tựu



Nhân vì trên thế giới có năm đại ma quân, nên có năm phương Phật ngăn chặn, chấn áp. Trong năm bộ của CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, nhìn chung có hơn 30 pháp, nếu giảng rộng ắt có hơn trăm pháp. Nhưng có năm loại pháp chánh yếu như sau:


1)       Pháp Thành tựu: Có nghĩa là  qúi vị trì CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM, THÌ TU PHÁP GÌ, cầu nguyện mong cầu điều gì CŨNG ĐƯỢC THÀNH TỰU VIÊN MÃN NHƯ Ý MUỐN của QÚY-VỊ.



2)      Pháp Tăng ích: Tức là khi quý vị tụng thần chú này, chẳng những chánh quý vị được TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, mà cả những người khác CŨNG ĐƯỢC NHƯ VẬY.



3)      Pháp Câu triệu: Là hiệu lịnh và bắt giữ tất cả TÀ-MA, NGOẠI ĐẠO, không ai có thể thoát được. Chẳng hạn như có ai đó gây hại cho người nào đó, rồi xa chạy cao bay. Nếu QÚY-VỊ biết sử dụng pháp câu triệu, thì chắc chắn kẻ đó không trốn thoát được.



4)     Pháp Hàng phục:  Là vì Loài quỷ cũng có pháp thuật và chú thuật để chúng sử dụng. Nhưng nếu quý vị trì tụng chú Lăng Nghiêm, thì sẽ phá tan các loại chú của chúng. Tôi cũng đã nói qua về uy lực của chú THỦ LĂNG NGHIÊM, có công năng HÀNG PHỤC và hủy diệt chú thuật của bọn ma vương gây hại. Đối với những ai chưa học cũng nên lưu ý điều nầy. Nhưng tại sao khi tụng chú Lăng Nghiêm thì chú của Phạm Thiên thành ra vô hiệu?




Đây là vì “Ngũ đại tâm chú”

104. Sất đà nể
105. A ca ra
106. Mật rị trụ
107. Bát rị đát ra da
108. Nảnh yết rị



Năm câu trên là “Ngũ đại tâm chú”. TÂM CHÚ này khi sử dụng thì mọi chú thuật của bọn TÀ MA NGOẠI ĐẠO đều ra vô hiệu. Nếu quý vị có lòng thành tôi sẽ truyền cho quý vị, hoàn toàn miễn phí.


5)      Pháp Tức tai: Là Tất cả mọi tai họa đều được ngăn ngừa, tránh khỏi. Chẳng hạn có ai đó bị rơi xuống biển, nhưng nếu người đó đã từng trì tụng chú Lăng Nghiêm,thì chắc chắn sẽ tránh được tai họa, tức không chết chìm.

 

Có thể quý vị ở trong con tàu lẽ ra phải chìm, nhưng quý vị tụng thần chú này, con tàu sẽ không chìm. Hoặc có thể đi trên máy bay bị hư hỏng, nhưng nếu tụng trì chú Lăng Nghiêm, thì máy bay cũng sẽ hạ cánh an toàn.

 

Tôi xin kể một câu chuyện thật khó tin, lần đó tôi đi từ Miến Điện sang Thái Lan, đường bay lúc đó rất nguy hiểm. Nhưng suốt cuộc hành trình, máy bay chẳng có dấu hiệu gì là bất ổn, và chuyến đi hết sức bình yên, thuận lợi.

 

 Ngay cả viên phi công cũng lấy làm lạ: “Tại sao chuyến bay lại được êm xuôi như thế?”  Anh ta không biết trong suốt chặng đường đã có Thiện thần, Thiên long Bát bộ, và cả chư Phật, chư Bồ tát, cùng hộ trì chuyến bay được an toàn, thuận lợi.

 


Đây là pháp Tức tai. Khi có một sự cố gì xảy ra, nó có thể hóa lớn thành nhỏ, và hóa nhỏ thành không có tai nạn gì cả. Thường, khi có sự cố xảy ra, qúi vị  không bị nguy hiểm”,  vì quý vị thường trì tụng chú Thủ Lăng Nghiêm.


Lợi ích của chú rất lớn, cho dù TÔI có bỏ ra vài năm để giảng giải cũng không hết. Ở đây, tôi chỉ nói lược qua 5 PHÁP mà thôi.

 

(HT TUYÊN HÓA giảng giải)


104. SẤT ĐÀ NỂ

叱陀你

CCHADANA


105. A CA RA

阿迦囉

ĀKALA


106. MẬT RỊ TRỤ

密唎柱

MRTYU


107. BÁT RỊ ĐÁT RA DA

般唎怛囉耶

PRA'SAMANA


108. NẢNH YẾT RỊ

KARĪ



PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ


Ngũ-Đại Tâm Chú


SẤT ĐÀ NỂ, A CA RA MẬT RỊ TRỤ, BÁT RỊ ĐÁT RA DA NẢNH YẾT RỊ. 





Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Bảy

Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.


Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.

Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. [53-56] 


Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,

                                 nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.


ŌM! SÂN ĐÀ DẠ DI.



   
37.   The Jeweled Sutra Hand and Eye
         
Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp



THẬP PHƯƠNG TAM-THẾ PHẬT

A-DI-ĐÀ ĐỆ NHỨT

CỬU PHẨM ĐỘ CHÚNG-SANH

OAI-ĐỨC VÔ CÙNG CỰC.

 

 

THẬP PHƯƠNG TAM-THẾ PHẬT

 

Trong khoảng không gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta Bà của Đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta Bà ra còn có vô biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một Đức Phật làm Giáo chủ, thế giới đã có vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói :  "Mười phương chư Phật ba đời".



A-DI-ĐÀ ĐỆ NHỨT



Trong vô lượng chư Phật ở mười phương ba đời đó, suy ra thời "Đức Phật A Di Đà là bậc nhứt".

Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhứt ?. Đây nói bậc nhứt là cứ nơi ứng Hóa thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến Pháp thân và Báo thân, về Pháp thân và Báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng Hóa thân là những thân vì chúng sanh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sanh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cũng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác đó cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ Tát không đồng nhau vậy.


Về sự thù thắng nơi ứng thân của Đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời có bốn điều :


I. Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn, như trong Kinh A Di Đà nói : “Quang minh của Đức Phật đó vô lượng, chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại nên hiệu A Di Đà”. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói : “Giả sử khi Ta đặng thành Phật mà quang minh có hạn lượng, ít nhứt là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha cõi nước của chư Phật, thời Ta nguyện không chứng quả Chánh giác”, (điều nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).


Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100, 1000,… do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1000,… thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm !


Vì quang minh vô lượng nên Đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Kinh Vô Lượng Thọ: 1. Vô Lượng Quang. 2. Vô Biên Quang. 3. Vô Ngại Quang. 4. Vô Đối Quang. 5. Viêm Vương Quang (có chỗ để Diệm Vương Quang). 6. Thanh Tịnh Quang. 7. Hoan Hỷ Quang. 8. Trí Huệ Quang. 9. Nan Tư Quang. 10. Bất Đoạn Quang. 11. Vô Xứng Quang. 12. Siêu Nhựt Nguyệt Quang.


Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời Đức A Di Đà được phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.


II. - Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng : hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi… hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp… như Đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.


Còn về ứng thân của Đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Kinh A Di Đà nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Kinh Vô Lượng Thọ nói : “Giả sử khi Ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhứt không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời Ta nguyện không chứng quả Chánh giác”. Nên Đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.


Đây là thọ mạng của Đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.


III.-  Về phần đồng cư nơi Cực Lạc, là cõi nước của Đức Phật A Di Đà cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà và Quán Vô Lượng Thọ Kinh đã rộng thuật.


Lại trong bộ Yếu Giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung: thọ lạc viên dung – Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi Thánh : Phương Tiện độ, Thật Báo độ, Thường Tịch Quang độ – cõi trước là cõi của Nhị thừa Thánh nhơn, kế là cõi của đại Bồ Tát, sau rốt là cõi của Đức Phật).


Chứ so với các cõi khác, như Ta Bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính là Đồng Cư độ của cõi Ta Bà vậy thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng đều khổ sở, ngũ trược… lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.


Đây là cõi Đức Phật A Di Đà, về phần Đồng Cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.


IV. - Nhân dân trong nước của Đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng cũng đều trụ bậc “Bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mải đến thành Phật, không còn ngưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh ! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sanh bổ xứ Đồ Tát” như ngài Quán Âm, Thế Chí, hay như là Di Lặc, số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền cùng Thanh Văn Duyên Giác ! -Trong Kinh A Di Đà nói : “Nơi nước Cực Lạc, chúng sanh nào sanh về đó đều là bậc Bất thối chuyển. A La Hán và Bồ Tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói vô lượng vô biên vô số thôi”.


Bậc Thánh trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta Bà có 62 ức hằng hà sa vị Bồ Tát..


Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Kinh A Di Đà nói : “Thọ mạng của Đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân của Ngài, vô lượng, vô biên, vô số kiếp”.


Đấy là nhân dân, La Hán, Bồ Tát của Đức Phật A Di Đà có phần đặc thắng trong các cõi nước mười phương vậy.


Vì những phần đặc thắng trên đây, nên trong văn nói : “Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bậc nhứt”.



Đối với chúng sanh, Đức Phật A Di Đà có nguyện lực độ sanh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng nhứt là đã nêu bày trong 48 điều nguyện của Ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm trong mười phương ! Lại trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có câu: “Phật-tâm đó là lòng đại từ bi vậy dùng Vô duyên từ nhiếp độ các chúng sanh”.

 

Kinh lại nói : “Đức Vô Lượng Thọ Phật có 84.000 tướng, trong mỗi tướng đều cố 84.000 tùy hình hảo, trong mỗi hình hảo lại có 84.000 ánh sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật không lìa bỏ”.


Đức Phật A Di Đà có lòng từ, nguyện lớn, phóng quang minh tiếp độ chúng sanh không lìa bỏ, nên trong văn nói:Di Đà bậc nhứt chẳng rời quần sanh”.

CỬU PHẨM ĐỘ CHÚNG-SANH



Do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, nên những người được sanh về cõi Cực Lạc của Ngài đều từ trong hoa sen báu nơi ao thất bảo mà hóa sanh, nghĩa là mượn hoa sen làm bào thai mà cho thân hình. Đó gọi là “Liên hoa thanh tịnh hóa sanh”, cũng có câu “Liên hoa vi phụ mẫu”. Vì người vãng sanh về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều ít không đồng nhau, nên hoa sen là chỗ thác sanh cũng có nhiều hạng, đại khái chia làm 9 phẩm:

 

1. Thượng phẩm thượng sanh.

2. Thượng phẩm trung sanh.

3. Thượng phẩm hạ sanh.

(Ba phẩm này thuộc bậc Đại thừa Bồ Tát)

 

4. Trung phẩm thượng sanh.

5. Trung phẩm trung sanh.

(2 phẩm đây thuộc hàng Nhị thừa Thánh nhơn)

 

6. Trung phẩm hạ sanh.

(1 phẩm đây thuộc hàng có công đức lành ở đời)

 

 7. Hạ phẩm thượng sanh.

8. Hạ phẩm trung sanh.

9. Hạ phẩm hạ sanh.

(3 phẩm này thuộc về hạng người tạo ác nghiệp)


Cứ nơi chín phẩm trên đây, thời thấy rằng từ bậc Đại thừa Bồ Tát, Nhị thừa Thánh nhơn, người lành tốt trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v… mà có gia công niệm Phật, thời đều được vãng sanh về cõi Cực Lạc cả.


(Trừ người hủy báng Tam Bảo)

 


Đức Phật A Di Đà sẵn đức từ bi nguyện lực, dùng chín phẩm liên hoa báu để chờ tiếp dẫn chúng sanh nào muốn sanh về nước của Ngài; nên trong văn nói :Sen vàng chín phẩm sẵn dành”.



OAI-ĐỨC VÔ CÙNG CỰC



Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang chiếu phá sự mê tối của chúng sanh khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng sanh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an ổn không thối không thất, và hiện vô lượng thân đến khắp vô lượng thế giới để tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực Lạc. Đây là “linh thông”


Tâm của Phật không phút nào quên chúng sanh, như cha mẹ hiền nhớ còn thương con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn mãn đây là “đức lành”. Như Kinh A Di Đà nói:

“Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nghe nói đến Đức Phật. A Di Đà rồi hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, chấp trì danh hiệu nhứt tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm chung, Đức Phật A Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên đảo, liền đặng vãng sanh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”.

 

Kinh Lăng Nghiêm có câu : “Các Đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ cọn”. Lại có câu : “Người nào niệm danh hiệu Phật, thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm cho các sự tai vạ tà ma, quỷ quái không đến gần được”.


Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn nói:Oai linh đức cả đã dành vô biên”.


Từ đây nhẫn lên là giải một đoạn 4 câu kệ về phần tán thán công đức của Phật:

Mười phương chư Phật ba đời.
Di Đà bậc nhứt chẳng rời quần sanh.
Sen vàng chín phẩm sẵn dành.
Oai linh đức cả đã dành vô biên.

 

HÂN TỊNH TỲ KHEO

Cẩn Chí



Trừ người hủy báng Tam Bảo ?


KINH VĂN:

 

Hạ phẩm hạ sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức ách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại bảo: "Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia thì nên chí thành xưng "Nam Mô A Di Đà Phật" tiếng tăm liên tiếp không dứt cho đủ mười niệm". Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh hiệu Phật nên mỗi mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Như thế mãn mười hai đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị Ðại Sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về Thật Tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe rồi thân tâm vui đẹp, liền phát lòng Vô Thượng Bồ Ðề. Đây là cảnh hạ phẩm hạ sanh.

Môn tưởng trên gọi là hạ bối vãng sanh, thuộc về pháp quán thứ mười sáu.

 

SỚ GIẢI :

Tội ngũ nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá sự hòa hợp của chư Tăng, và làm cho thân Phật ra máu. Vì năm tội này trái ân phụ đức, nên gọi là "nghịch." “Thập ác” là ba nghiệp dữ của thân, bốn nghiệp dữ của miệng, và ba nghiệp dữ của ý; tất cả ác nghiệp đều nhiếp về mười điều này. "Mười niệm" ước về số ít là mười câu, nhiều là mười hơi.

Hỏi: Theo kinh Vô Lượng Thọ, đoạn bốn mươi tám điều đại nguyện, có câu "duy trừ những người tạo ngũ nghịch và báng chánh pháp, ngoài ra đều được vãng sanh." Nay trong chương hạ phẩm hạ sanh của Quán kinh đây lại nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch, không thâu kẻ báng chánh pháp là ý thế nào?

Đáp: Việc ấy nên hiểu theo nghĩa Ức Chỉ Môn, tức là lời nói ngăn đón trong Phật pháp. Bởi người đã tạo tội ngũ nghịch tất nghiệp chướng rất nặng nề, khó hồi tâm hướng về Chánh Pháp, nên đức Như Lai mới nói lời rào đón trước, để cho kẻ ấy được dễ dàng trong sự vãng sanh. Nếu người tạo ngũ nghịch, thập ác mà biết hồi tâm niệm Phật, tất đức Phật sẵn sàng tiếp dẫn. Chư Phật lòng từ vi vô lượng, đối với kẻ lỗi lầm biết quay đầu về hướng thiện, lẽ nào lại không tiếp độ? Cho nên Quán Kinh nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch là bởi ý đó.

Trong kinh đây không nói đến kẻ báng pháp là bởi nếu đã tạo tội nặng mà biết tin tưởng Chánh Pháp thì còn có thể hóa độ, bằng trái lại thì dù có khuyên bảo chỉ e luống vô công. Tuy nhiên, nếu có người trước kia không tin tưởng, thường phỉ báng Chánh Pháp sau bị tai nạn, hay thấy ác tướng, hoặc gặp duyên sự gì, biết thức tỉnh trở lại nẻo chánh chơn thì chư Phật với tâm bình đẳng từ bi vẫn sẵn sàng tiếp độ. Vì thế, kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Nếu trong hàng tứ chúng có kẻ báng kinh Ðại Thừa, tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng giới, mà biết chí tâm hệ niệm quán tưởng một tướng hảo của Phật trong một ngày đêm thì các tội chướng thảy đều tiêu diệt." Thế thì những kẻ báng Chánh Pháp nếu có thể hồi tâm, tất đều vãng sanh chớ chẳng phải là không được thâu nhiếp đâu!

Nhưng người báng Chánh Pháp dù được vãng sanh, phải ở trong hoa sen trải qua nhiều kiếp. Trong thời gian lâu xa ấy, đương nhơn tuy hưởng sự vui như Tam Thiền, song còn ba điều chướng là: không được thấy Phật và Thánh Chúng, không được nghe Chánh Pháp, không được thừa sự cúng dường các đức Thế Tôn. Tuy thế, cũng còn hơn là kẻ không hồi tâm để bị đọa vào địa ngục A Tỳ!

Về hạ phẩm vãng sanh đến đây đã xong.

Có lời khen rằng:


Hạ bối căn non, kém hiểu biết,

Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp

Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,

Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.

Lâm chung tướng khổ hội như mây,

Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.

Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh

Mi Đà hóa hiện tay vàng tiếp.

Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,

Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.

Mười hai đại kiếp hoa sen nở

Đại nguyện theo với tiếng đại bi.

 

KINH VĂN:

 

Khi đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, Vi Đề Hy phu nhơn cùng năm trăm thị nữ liền thấy tướng rộng dài của thế giới Cực Lạc, sắc thân của Phật A Mi Đà và hai vị Bồ Tát. Tất cả đều sanh lòng vui mừng, khen là việc chưa từng có. Phu nhơn hoát nhiên đại ngộ, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nguyện sanh về Cực Lạc. Đức Thế Tôn thọ ký cho tất cả đều được vãng sanh và sau khi sanh về Tịnh Ðộ đều chứng Chư Phật Hiện Tiền tam muội.

 

SỚ GIẢI :

 

Vô lượng chư thiên phát tâm vô thượng Bồ Ðề.

Trước chỉ nói bà Vi Đề Hy thấy cõi Cực Lạc, nay lại thuyết minh năm trăm thị nữ đều thấy, đây là mật ý chỉ cho phu nhơn và năm trăm thị nữ đều có nhơn duyên với miền An Dưỡng.

Hỏi: Luận Vãng Sanh nói:

"Người nữ, kẻ căn thiếu;

Nhị thừa chủng không sanh".

Như thế tại sao trong kinh này Phật lại ấn hứa cho người nữ được vãng sanh?

Đáp: Đó là ý nói ở Cực Lạc không có người nữ cùng kẻ sáu căn không đủ, chứ chẳng phải nữ nhơn và kẻ thiếu căn niệm Phật không được vãng sanh đâu! Còn "Nhị Thừa chủng" là chỉ cho hàng định tánh Thanh Văn lấy quả Vô Dư Niết Bàn làm cứu cánh, không tin có cõi Cực Lạc. Nếu những vị này hướng về Ðại Thừa, phát tâm niệm Phật tất đều được vãng sanh.

 

 

Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ Sao

 

Ðời Lưu Tống ngài Cương Lương Gia Xá dịch

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm


Comments

Popular posts from this blog