Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
425. LAO ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN
嘮怛唎曳泮
RAUDRIYE PHAT
Sân
nộ thần vương tịch diệt không
Vô
tâm vô ý vô cấu tông
Dịch
sử quỷ ma tật đố nữ
Cải
tà quy chánh nhậm tung hoành.
瞋怒神王寂滅空
無心無意無垢宗
役使鬼魔嫉妒女
改邪歸正任縱橫
SÂN NỘ THẦN VƯƠNG BẢO HỘ
BÀI KỆ THỨ 63
Một
câu A Di Ðà
Như ngọc lắng trong nước
Ngàn muôn tạp niệm rối
Chẳng dứt tự thành không.
Nhứt cú Di Ðà
Như thủy thanh châu
Phân vân tạp niệm
Bất đoạn tự vô.
LƯỢC GIẢI
Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu niệm Phật cũng
thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ chắc sáu chữ
hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý trong đây là
không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm.
Vì vọng niệm vốn
như huyễn, cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng.
Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi." (Tương dục án chi, tất cố hưng chi). Khi xưa có một Tú Tài đến phỏng đạo nơi bậc cao đức, vị Thiền sư này hỏi: “Cư sĩ tên họ chi?" Tú Tài đáp: "Thưa, đệ tử nhũ danh Trương Chuyết". Chữ Chuyết có nghĩa là vụng về. Thiền Sư nghe xong bảo: “Với đạo khéo còn chẳng có, huống chi đến vụng!" Tú Tài nghe qua liền ngộ vào Bất Nhị pháp môn, làm kệ trình lên rằng:
Ánh linh lặng chiếu
khắp hằng sa
Phàm thánh nguyên lai bản tánh ta
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện
Sáu căn vừa động bị mây lòa
Dứt trừ phiền não càng thêm bịnh
Tìm tới Chân Như cũng vẫn tà
Tùy thuận các duyên không trở ngại
Niết bàn sanh tử tợ không hoa.
Theo ý hai câu luận bài kệ trên, phiền não vốn là không, là huyễn, cứ mặc nhiên
giữ chánh niệm, nó sẽ tự tiêu tan. Nếu khởi ý dứt trừ thì phiền vọng lại hóa
thành có. Chân Như là thể tánh tự nhiên, biết lặng lẽ dung hợp với tự nhiên,
tánh Chân Như sẽ hiển lộ. Nếu khởi tâm tìm tòi xu hướng, tức có niệm phân biệt,
trái với thể bản nhiên, đó chính là tà vọng.
Ðể
bổ túc ý trên, xin ghi thêm lời của Ðàm Hư đại sư, một bậc cao tăng cận đại thuộc
giáo phái Thiên Thai bên Trung Quốc.
Ðây Phật Tổ quê hương
Xứ xứ hiện phong quang
Nước non miền đất rộng
Ưng tự có biên cương
Ðộng vật tùy sanh trưởng
Thực vật tự phô trương
Nắng mưa tùy đổi tiết
Tháng năm tự đoản trường
Vinh hư muôn tượng hiện
Là tự thể chân thường
Nếu cố ý cầu toàn
Trở lại bị tổn thương!
CHUNG
Đức Phật bảo đại chúng : “ Giờ đây ta nhập Niết Bàn,
cả mình ta đau nhức.”
Nói vừa xong, đức Phật liền nhập sơ thiền, xuất sơ
thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập tứ thiền,
xuất tứ thiền nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập thức xứ định, xuất thức
xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập phi tưởng phi phi tưởng
xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi
tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất
bất dụng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập không xứ định, xuất
không xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập
nhị thiền xuất nhị thiền nhập sơ thiền.
Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định xong, lại
phổ cáo đại chúng : “ Ta dùng thậm thâm bát nhã xem khắp ba cõi tất cả lục đạo
chúng sanh, ba cõi nầy bổn tánh rời lìa
rốt ráo tịch diệt đồng như hư không, không danh,không thức, dứt hẳn các
cõi, bổn lai bình đẳng không có tưởng niệm cao hạ, không thấy nghe, không hay
biết, không hệ phược, không giải thoát, không chúng sanh, không thọ mạng, không
sanh không diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, Niết Bàn sanh tử
đều không thể được, trước sau bình đẳng vì bình đẳng với các pháp, nhàn cư tịnh
trụ không có chỗ thi vi, an trí rốt ráo quyết định bất khả đắc, từ pháp vô trụ
pháp tánh thi vi, dứt tất cả tướng, trọn không chỗ có. Pháp tướng như vậy, ai
biết rõ thời gọi là người xuất thế, kẻ chẳng biết như vậy thời gọi là đầu mối
sanh tử. Đại chúng phải dứt vô minh, diệt đầu mối sanh tử !
Bảo xong, Đức Thế Tôn nhập thiền định siêu việt : Từ
sơ thiền xuất liền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập không xứ định, xuất
không xứ định nhập vô sở hữu xứ định, xuất vô sở hữu xứ định nhập diệt tận định,
xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định
nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập nhị thiền,
xuất nhị thiền nhập sơ thiền.
Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập thiền định siêu việt
xong, lại bảo đại chúng : “ Ta dùng Ma Ha Bát Nhã xem khắp ba cõi tất cả nhơn
pháp hữu tình vô tình thảy đều rốt ráo, không hệ phược, không giải thoát, không
chủ, không y, không thể nhiếp trì, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, bổn lai
thanh tịnh không cấu nhơ, không phiền não, đồng như hư không, chẳng bình đẳng
chẳng phải chẳng bình đẳng, dứt hết những động niệm tư tưởng tâm thức. Pháp tướng
như vậy gọi là Đại Niết Bàn, thấy rõ được pháp tướng nầy thời gọi là giải
thoát, phàm phu chẳng thấy biết thời gọi là vô minh.
Nói xong Đức Phật lại nhập thiền định siêu việt xuất
sơ thiền nhập tam thiền nhẫn đến nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhẫn đến
nhập sơ thiền.
Nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, Đức Thế
Tôn lại bảo đại chúng : “ Ta dùng Phật nhãn xem khắp ba cõi tất cả các pháp, thể
tánh của vô minh vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn không thể được.
Vì cội gốc đã không nên nhánh lá thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát nên
hành đến lão tử đều được giải thoát. Do đây nên ngày nay ta an trụ thường tịnh
diệt quang gọi là Đại Niết Bàn.
KINH
ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
PHẨM
ỨNG TẬN HƯỜN NGUYÊN THỨ HAI MƯƠI BẢY
Việt Dịch HT. Trí Tịnh
Kinh
văn:
Do
tham vu vạ mà làm ra tội, thì người ấy đền tội xong, gặp tinh linh thành hình, gọi
là Dịch Sử quỷ.
Giảng
giải:
Do
tham vu vạ mà làm ra tội, thì người ấy đền tội xong, gặp tinh linh thành hình. Đây
là tập khí dối trá. Vì muốn được nên dùng mọi cách dối gạt người. Hành động ấy
khiến người phạm tội đi vào địa ngục. Sau hàng trăm ngàn kiếp chịu tội, người ấy
ra khỏi địa ngục, nhưng tập khí dối trá chưa dứt, thần thức người ấy vẫn muốn gạt
người. Do đó khi gặp tinh linh – tức là loại chú thuật, thì thành hình, gọi là
Dịch Sử quỷ, nó giúp con người làm những điều họ muốn.
(Tại
Trung Quốc có người tên Kỷ Hiểu Đường, dưới tay ông ta có năm con quỷ Dịch Sử. Loài
quỷ này cũng có năm thần thông: thiên nhãn, thiên nhĩ, thần túc, túc mạng và
tha tâm thông, không có lậu tận thông. Loài quỷ này thuộc âm, không phải thuần
dương nên sức thần thông không lớn. Kỷ Hiểu Đường dùng quỷ này đi truyền đạt
tin tức, nơi nào có tại họa, ông sai bọn chúng đến cứu giúp người lương thiện.
Đương thời, người trong xóm đều gọi ông là thần tiên sống).
Kinh
văn:
Dịch
sử quỷ tinh linh, tinh linh diệt báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm tất
cả các loài hưu trưng.
Giảng
giải:
Đấy
là loại Dịch sử quỷ. Khi trở lại thế gian, chúng tái sinh làm tất cả động vật
mang lại điềm lành cho con người, như kỳ lân, phượng hoàng.
TUYÊN HÓA THUỢNG NHÂN
giảng thuật
Y Hê Di Hê [36]
NGÀI MA-HÊ-THỦ-LA THIÊN-VƯƠNG
“MA-HÊ-THỦ-LA” mãnh hựu hung
Thưởng thiện phạt ác kiến kỳ công
Phổ độ quần mê đăng bỉ ngạn
Hóa lợi hữu tình vô thủy chung
Comments
Post a Comment