Chapter 1. The Three Gradual Stages



BA TIỆM THỨ TU TẬP

 

 

1)  Là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt … làm trợ nhân.

 

2) Là NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT trong-sạch, đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng ...

 

3)  Là tinh tấn tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi.

 

 

( Có một độ nọ, Phật-tử giúp một  vị Thượng-tọa BỨNG một gốc cây lớn. Nhân đó vị Thượng-tọa liền khai thị cho Phật-tử rằng:

 

“ Tu-hành thì phải tu ở GỐC, đừng tu theo CÀNH LÁ.”

 

Phật-tử hỏi : Sao thấy THẦY đốn các CÀNH LÁ trước, rồi mới móc GỐC sau. Vị Thượng-tọa ấy nhìn Phật-tử một hồi, rồi IM LẶNG KHÔNG NÓI. Câu Truyện đến đó rồi cũng qua đi. )

 


KINH VĂN:

 

阿難。如是      中。亦各各具十二顚倒。猶如捏目亂華發生。

A-Nan! Như thị chúng-sanh nhứt nhứt  loại  trung, diệc các các cụ thập nhị điên-đảo, do như niết-mục, loạn hoa phát sanh.

 

VIỆT DỊCH:

 

A Nan, như vậy chúng sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ cả mười hai thứ điên đảo, cũng như dụi con mắt thì các thứ hoa đốm phát sinh ra.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

A Nan, như vậy chúng sinh trong mỗi mỗi mười hai loài đã nói qua, cũng đều đủ cả mười hai thứ điên đảo.

 

Tôi đã nói qua về các loại điên đảo, ở mỗi loại đều có sự liên quan đến mười hai loại điên đảo khác. Sự vọng niệm và tình trạng điên đảo đều khởi từ nhận thức sai lầm, cũng như dụi con mắt thì các thứ hoa đốm phát sinh ra.

 

Nếu quý vị ấn, dụi đầu ngón tay lên mắt, quý vị sẽ thấy rất nhiều hoa đốm giả tạo chập chờn trước mắt, nếu buông ra, các hình ảnh ấy biến mất. Chỉ vì quý vị  chấp trước theo vọng niệm điên đảo nên không vượt thoát khỏi vòng luân hồi của mười hai loại chúng sinh.

 

Nếu chúng ta đừng đuổi theo vọng niệm điên đảo, mà trở lại nghe TỰ TÁNH, thì dù có TIẾNG hay KHÔNG có TIẾNG, thì TÁNH NGHE cũng không SINH DIỆT, TỊCH DIỆT HIỆN TIỀN, đây là pháp “NHĨ CĂN VIÊN THÔNG”, của Bồ-tát QUÁN THẾ ÂM, tu chứng CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ, là bậc nhất.

 

Vậy nên,  quý vị  sẽ phá vỡ  được vô minh, mọi hư giả đều biến mất.

 

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.

 

Ẩn Tu Ngẫu Vịnh

 


KINH VĂN:

 

       心。具足如斯虛妄亂想。

Điên-đảo diệu-viên chơn-tịnh minh-tâm, cụ túc  như tư hư vọng loạn-tưởng.

 

VIỆT DỊCH:

 

Chân tâm diệu viên trong sạch sáng suốt mà điên đảo thì đầy đủ những loạn tưởng giả dối như vậy.

 

GIẢNG GIẢI:

 

        Từ nhận thức sai lầm sinh ra điên đảo, làm thành vọng niệm. Trong tự tính Như Lai tạng, vô minh sinh khởi. Từ căn bản CHÂN TÁNH sinh ra sai lầm, giả tạo. Tâm thanh tịnh và trong sáng trở nên đầy dẫy những vọng tưởng không chân thật.

 


KINH VĂN:

 

汝今修   三摩地。於是本因   所亂 想。亂 想。立三漸次。方  除滅。

Nhữ kim tu  chứng Phật  Tam-ma-địa,  ư thị  bản-nhân nguyên  sở loạn-tưởng,  lập  tam  tiệm  thứ,  phương đắc  trừ  diệt.

 

VIỆT DỊCH:

 

Nay ông tu chứng Tam ma địa của Phật, vậy đối với tư tưởng càn loạn là nguyên nhân cội gốc của  các điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ mới diệt trừ được.

 

GIẢNG GIẢI:

 

Nay ông tu chứng Tam ma địa của Phật, vậy đối với tư tưởng càn loạn là nguyên nhân cộc gốc của điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ.

 

Ông phải lập ra ba loại tiệm thứ và lần lượt tu tập, vậy mới diệt trừ được mọi loạn tưởng.



KINH VĂN:

 

如淨器中  除去毒蜜。以諸湯水    灰香。洗滌其器。後貯甘露。

Như tịnh khí trung trừ khử độc-mật, dĩ  chư thang thủy tịnh tạp khôi hương, tẩy  địch  kỳ  khí, hậu  trử  cam-lộ.      

 

VIỆT DỊCH:

 

Cũng như bình đựng trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các chất tro, chất thơm rửa sạch bình, sau đó mới đựng nước cam lồ.

 

GIẢNG GIẢI:

 

Cũng như bình đựng trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các chất tro, chất thơm rửa sạch bình.

 

“Bình đựng trong sạch” có nghĩa là vật thể đã trở lại trong sạch, tượng trưng cho tính Như Lai Tạng, vốn có trong tất cả chúng ta, không SANH DIỆT.

 

“Mật độc” tượng trưng cho vô minh và phiền não của con người.

 

“Nước nóng” biểu hiện Phật pháp sẽ làm cho chúng ta được trong sạch.

 

“Rửa sạch” là quay trở lại tự tánh Như Lai Tạng . Sau đó mới đựng nước cam lồ.

 

NƯỚC CAM LỘ có thể TRÌ tất cả TRÍ HUỆ chân thật, giúp CHÚNG TA hướng đến đạo giác ngộ - Đây là những gì  “nước cam lồ” tượng trưng.

 


KINH VĂN:

 

云何名為三   次。一者修習。除其助因。二者眞修。刳其正性。三者增進。違其現業。

 Vân hà danh vi, tam chủng tiệm-thứ? Nhứt giả: tu tập, trừ kỳ trợ-nhân.  Nhị giả: chơn-tu, khóa kỳ chánh-tánh. Tam giả: tăng tiến, vi kỳ hiện-nghiệp.



VIỆT DỊCH:

 

Thế nào gọi là ba loại tiệm thứ?

 

Một là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt… làm trợ nhân.

 

Hai là chân tu GIỚI LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng.

 

Ba là tinh tấn tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi.

 

GIẢNG GIẢI:

 

Thế nào gọi là ba loại tiệm thứ?

 

Một là tu tập, trừ các thói quen ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt… làm trợ nhân, đây là các nguyên nhân tạo nên các  ác nghiệp.

 

Hai là chân tu GIỚI LUẬT trong-sạch , đoạn trừ bản tánh của nghiệp là dâm, sát, đạo, vọng, đây là những nghiệp chướng làm cho  tham, sân, si… tăng trưởng.

 

Ba là tinh tấn tu NHĨ CĂN VIÊN THÔNG, để hiện nghiệp không sanh khởi,  qua sự tu tập của HÀNH GIẢ thì  không còn tạo thêm nghiệp mới trong cuộc sống hiện tại.



1. THẾ NÀO LÀ TRỢ NHÂN ?

 

 

KINH VĂN:

  

 云何助因。阿難。如是世界十二類生。不能自全。依四食住。所謂段食、觸食、思食、識食。是故佛說一切眾 皆依食住。

Vân-hà trợ-nhân? A-Nan! Như  thị  thế-giới,  thập nhị loại sanh, bất năng tự toàn, y-tứ  thực  trụ, sở  vị:  đoạn-thực, xúc-thực, tư-thực, thức-thực;      thị cố Phật thuyết nhứt thiết chúng-sanh, giai y thực trụ.           

 

VIỆT DỊCH:

 

Thế nào là trợ nhân?

 

A-Nan, đây là mười hai loại chúng sinh trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà SỐNG; nghĩa là nương theo đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực.

 

Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh đều nương vào cái ăn mà an trụ.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

Thế nào là trợ nhân? Có những trợ nhân tạo nghiệp lành, có trợ nhân tạo nghiệp ác. Ở đây, Đức Phật nói đến các trợ nhân dẫn đến nghiệp xấu.

 

A Nan, đấy là mười hai loại chúng sinh trong thế giới, như đã nói qua, không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà SỐNG. Mọi người đều phải ăn để sinh tồn, nghĩa là nương theo đoạn thực, chia cắt thành từng miếng, từng phần để ăn. Đấy là cách ăn của chư Thiên lục dục, A tu la, con người và súc sinh. (Lấy tiêu hóa làm thức ăn)

 

Xúc thực - Quỷ và thần ăn theo cách XÚC chạm CĂN và CẢNH làm thức ăn, vài loại ở cõi Trời cũng dùng theo lối này. (lấy gửi hơi, nếm vị, vui mừng...  làm thức ăn)

 

Tư thực – cách dùng tư duy thiền định làm thức ăn ( THIỀN LẠC THỰC) , đây là cách ăn của chư Thiên sắc giới.

 

Và thức thực – lấy THỨC phân biệt làm thức ăn, đây là cách ăn của chúng vô sắc và chư Thiên phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh đều nương vào cái ăn mà an trụ.

 

Sau khi Phật thành đạo,  muốn độ người tu khổ hạnh theo lối nhịn ăn , nên Ngài nói pháp:

 

“Tất cả chúng sinh phải nương theo cái ăn mà an trụ.”

 

Các ngoại đạo cười Ngài và bảo:

 

“Ngay cả Đứa bé cũng biết đều đó.”

 

Phật hỏi lại: “Vậy các ông nói coi có bao nhiêu cách ăn?”. Các ngoại đạo lặng im không đáp, nhân đó Phật nói về bốn cách ăn mà an trụ.



KINH VĂN:

 

阿難。一切眾生。食甘故生。食毒故死。是諸眾生求三摩地。當斷世間五 菜。

A - Nan! Nhứt thiết chúng-sanh, thực cam cố sanh, thực  độc  cố  tử,             thị chư chúng-sanh, cầu Tam - ma- địa, đương-đoạn thế-gian, ngũ chủng tân  thái.   

 

VIỆT DỊCH:

 

A-Nan, tất cả chúng sinh, dùng thức ăn lành thì sống, dùng thức ăn độc thì chết. Vậy các chúng sinh cầu Tam-ma-địa, nên dứt bỏ năm loại rau cay trong thế gian.

 

GIẢNG GIẢI:

 

Bài văn này luận về giai đoạn thứ nhất, loại trừ đi trợ nhân – tức cái nhân giúp đỡ. Năm món cay nồng làm tăng thêm nghiệp xấu, vậy nên bước đầu phải loại bỏ điều này.

 

A Nan, tất cả chúng sinh, dùng thức ăn lành thì sống, ăn thức ăn độc thì chết.

 

“Tất cả chúng sinh”, bao hàm mười hai chủng loại. “Thức ăn lành” – nguyên văn “TRONG LÀNH”, chỉ thực phẩm, thức ăn không độc hại, có nhiều dinh dưỡng.

 

“Thức độc” ở đây không phải là độc dược làm chết người, mà là chỉ năm loại rau cay, loại thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, làm giảm đi tuổi thọ, chứ không phải ăn vào là chết ngay.

 

Vậy các chúng sinh cầu Tam-ma-địa, nên dứt bỏ năm loại rau cay trong thế gian.

 

Giai đoạn đầu tiên là dứt trừ trợ nhân. Không dùng năm loại cay nồng: tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén.



KINH VĂN:

 

是五種辛。熟食發婬。生噉 恚。

Thị ngũ chủng tân, thục thực phát dâm, sanh diệm tặng nhuế. 

 

VIỆT DỊCH:

 

Năm loại rau cay này, ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì tăng thêm lòng giận.

 


GIẢNG GIẢI:

 

Năm loại rau cay này, ăn chín thì phát lòng dâm.

 

Ăn thịt cũng bị tác động như vậy. Đấy là lý do tại sao người tu hành không nên ăn thịt. Năm món cay kích thích làm sinh khởi lòng ham muốn, đặc biệt ở đây là chỉ sự ham muốn về dâm dục, khoái lạc.

 

Ăn sống thì tăng thêm lòng giận.

 

Cách ăn như thế làm cho con người ngốc nghếch hơn. Lý trí và tính cách bị mất đi. Một khi không còn sáng suốt thì không sao phân biệt được phải trái. Các sự việc bất ngờ xảy ra, họ không nhận rõ sự thực. Các vấn đề trở thành chướng ngại, không giải quyết được, và cách duy nhất là tức giận. Ăn thịt cũng bị tác động như vậy, dễ sinh lòng giận dữ. Ăn càng nhiều năm loại rau cay nầy, tính khí nóng giận càng tăng trưởng mạnh.



KINH VĂN:

 

如是世界食辛之人。縱能宣 十二部經。十方天仙。嫌其臭穢。咸皆遠離。諸餓鬼 等。因彼食次。舐其唇吻。常與鬼住。福德日消。長無利益。

Như  thị thế-giới, thực tân chi nhân, túng năng tuyên thuyết, thập nhị bộ kinh, thập phương Thiên Tiên, hiềm kỳ  xủ-uế, hàm giai  viễn-ly. Chư ngạ-quỉ đẳng, nhân bỉ thực thứ, đề  kỳ  thần vẫn, thường giữ quỉ-trụ, phước đức nhựt tiêu, trường vô lợi-ích.      

 

VIỆT DỊCH:

 

Như vậy trong thế giới, những người ăn rau cay đó, DÙ GIẢNG NÓI ĐƯỢC 12 BỘ KINH. Thiên tiên trong mười phương cũng chê là hôi, nên đều tránh xa.

 

Các loài quỷ ĐÓI, nhân lúc người kia ăn rau cay xong, bèn liếm môi mép người đó. Người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phước đức ngày càng giảm, hằng không được lợi ích.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

Như vậy trong thế giới, những người ăn rau cay đó, DÙ GIẢNG NÓI ĐƯỢC 12 BỘ KINH. Thiên tiên mười phương cũng chê là hôi, nên đều tránh xa.

 

Toàn bộ Kinh tạng của Phật giáo cộng chung có mười hai bộ:

1. Bộ Trường hàng: Giữa một bản Kinh không có ngắt đoạn cho nên gọi là Trường hàng.

2. Bộ Trùng Tụng: Lập lại ý nghĩa đã nói trong Kinh; nói lập lại văn Kinh Trường hàng để dễ ghi nhớ.

3. Bộ thọ ký: Trong Kinh điển đề cập đến việc Ðức Phật trước thọ ký cho Ðức Phật sau, ví như nói: "Ông ở kiếp nào đó sẽ được thành Phật tên là gì? Thọ mạng bao lâu? Chúng sanh giáo hóa được nhiều ít? Ở trước quốc độ nào?..." đều là dự báo trước, đó gọi là Thọ ký.

4. Bộ nhơn duyên: Do các thứ nhơn duyên mà nói các thứ pháp.

5. Bộ Thí dụ: Dùng một sự vật nào đó, tỷ dụ cho một sự vật nào đó để thuyết minh chỗ nhiệm mầu của Phật Pháp.

6. Bộ Bổn sự: Hoặc Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tự thuật việc tiền thân, hoặc thuật lại những sự tích tiền thân của một vị Phật hay một vị Bồ tát nào đó.

7. Bộ Bổn sanh: Nói về sự tích đời này của Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc việc đời này của một vị Bồ tát nào đó.

8. Bộ Phương quảng: Phương là bốn phương, Quảng là rộng khắp, biểu thị pháp được nói ra rất tinh vi rộng lớn.

9. Bộ Vị tằng hữu: Những điều này là từ trước đến nay chưa từng nói ra hay bây giờ mới nói.

10. Bộ Bất vấn tự thuyết: Như Kinh A-Di-Ðà, do vì bộ Kinh này rất trọng yếu, tất cả hàng Thanh văn không thể hiểu được, cho đến các vị Bồ tát cũng chưa có thể đạt đến cảnh giới này, nhơn đó Ðức Phật tự phóng ra ánh sáng chấn động cõi nước để nói ra bộ Kinh này.

11. Bộ Cô khởi: Cũng gọi là Phúng tụng. Trong một bộ Kinh, đó là những bài kệ đứng riêng một mình, không liên quan gì đến kinh văn trước hay sau cả, hoặc nói ra riêng rẽ về đạo lý, như Kinh Kim Cang.

12. Bộ Luận nghị: Nghiên cứu luận nghị về nghĩa lý của một loại Phật pháp.

 

 

Có bài kệ về 12 bộ Kinh:

 

 

Trường-Hàng, Trùng-tụng và Thọ-ký,
Cô-khởiVô-vấn mà tự thuyết,
Nhân-duyênThí-dụ với Bổn-sự

Bổn-sanhPhương-quảngVị-tằng-hữu

Luận-nghị cộng thành mười hai bộ.

 

 

 

Kinh Phật Thuyết A Di Ðà

 

Hán Văn: Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập.

GIẢNG GIẢI: Vạn Phật Thánh Thành, Tuyên Hóa Thượng Nhân.

 

 

 

Đây là nói về những người ăn rau cay, hoặc uống rượu, ăn thịt. Nói khác đi, chư Thiên Tiên sẽ không hộ vệ người ăn uống như vậy. Thân thể họ sẽ bốc mùi các thức ăn thịt bò, hành, tỏi; nách tiết ra mùi hôi khiến không ai dám đến gần họ.

 

Có một số người giảng nói được mười hai bộ kinh như là một bậc Đại trí huệ, nhưng nếu họ dùng thức ăn không trong sạch, thì lắng nghe họ chỉ có bọn quỷ, còn chư Thiên Tiên thì tránh xa.

 

Các loài Quỷ đói và rất nhiều loại sinh vật không có gì để ăn, nhân lúc người kia ăn rau cay xong – tức năm loại rau cay, bèn liếm môi mép người đó.

 

Sau khi người đó ăn xong các thức ăn nặng mùi, mùi vị tăng nồng ấy kích thích các quỷ tiến tới, bọn chúng sẽ ngửi và thưởng thức năm vị nồng của rau cay.  Quỷ ăn bằng cách xúc chạm giữa CĂN và CẢNH làm thức ăn , như chúng ta đã học qua, chúng sẽ chụm lại quanh người dùng thức ăn bất tịnh và dùng tay sờ soạng vào người ấy.

 

Quý vị không nhìn thấy, nhưng thực sự là chúng hành động như vậy.

 

Người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phúc đức ngày càng giảm, hằng không được lợi ích.

 

 Rất rõ ràng và đơn giản, đoạn này xác định người ăn năm loại rau cay, cuối cùng cũng họp chung với quỷ. Quỷ thường xuyên bám theo, mặc dù mọi người không để ý tới sự thực ấy. Phước đức cũng vì vậy mà giảm đi nhiều.



KINH VĂN:

 

是食辛人修三摩地。菩薩天仙。十   神。不來守護。大力魔王 得其方便。現作佛身。來為說法。非毀禁戒。讚婬怒癡。

Thị  thực  tân  nhân,  tu Tam-ma-địa, Bồ-Tát Thiên-Tiên, thập phương Thiện-Thần,    bất  lai  thủ  hộ, đại-lực  ma-vương, đắc kỳ phương-tiện,    hiện tác Phật thân, lai vi thuyết- pháp,  phi hủy cấm giới, tán dâm nộ si.      

 

VIỆT DỊCH:

 

Người ăn rau cay đó tu pháp Tam-ma-địa, các vị Bồ-tát, Thiên,  Tiên, mười phương Thiện thần chẳng đến bảo hộ. Đại lực Ma Vương được phương tiện đó, hiện làm thân Phật, đến thuyết pháp cho người ấy, chê phá giới cấm, ngợi khen dâm dục, nóng giận, si mê.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

Người ăn rau cay đó tu pháp Tam-ma-địa, Bồ-tát, Thiên, Tiên, mười phương Thiện thần, chẳng đến bảo hộ.

 

Đoạn này ám chỉ người nào? Đấy là những người dùng năm loại rau cay – Người đó có thể là quý vị là tôi. Tại sao Hộ pháp và Thiện thần lại không bảo vệ những người như thế?

 

Đây là vì họ có mùi hôi khó chịu. Các Hộ pháp ưa thích trong sạch, họ tránh mùi hôi nên không đến hộ vệ những người TU HÀNH như thế. Tuy nhiên, các  vị thần Hộ pháp là rất cần thiết cho người tu TAM MA ĐỊA, nơi các vị ấy trú ngụ thì không có ma quỷ, nơi không có Hộ pháp thì ma quỷ được nhiều thuận lợi. Hộ pháp và Thiện thần CÔNG VIỆC là bảo vệ và gia hộ người tu hành, nhưng trong trường hợp này họ không đến giúp.

 

Đại lực Ma Vương được phương tiện đó, hiện làm thân Phật, đến thuyết pháp cho người ấy.

 

Khi thấy không có Hộ pháp, Đại lực Ma Vương sẽ hiện đến nhóm họp cùng người ấy. Đại lực của Ma Vương như thế nào? Đó là họ có thể hiện ra thân Phật! Tôi có lời khuyên, nếu sau này quý vị đạt được Phật nhãn, quý vị sẽ thấy Phật, hoặc Bồ tát, hoặc Thiện thần hiện đến.

 

Nếu các vị đó là thật, thì ánh sáng của họ rất thanh tịnh và mát lạnh, khi ánh sáng ấy chạm vào người, quý vị sẽ cảm thấy rất thư thái, dễ chịu mà không sao diễn tả được – Đấy là bậc Thánh chân thật.

 

Còn như với Quỷ, chúng chỉ tỏa ra sức nóng. Tuy nhiên, phải cần có trí huệ mới phân biệt được sự khác biệt ấy. Dĩ nhiên, sức nóng ấy không phải nóng như lửa, mà đấy là hơi nóng của ánh sáng Quỷ, trong khi ánh sáng Phật không như vậy.

 

Một cách phân biệt nữa là lời pháp của Phật và Quỷ. Đại lực Ma Vương sẽ hiện đến chê phá giới cấm, ngợi khen dâm dục, nóng giận, si mê. Chúng sẽ nói:

 

“Đừng giữ giới, đó chỉ là hạnh của Tiểu thừa. Những giới cấm của Đại thừa như tà dâm, sát sinh, trộm cắp, chẳng là gì cả. Nếu các người sát sinh cũng chẳng phá giới gì, cả trộm cắp, tà dâm cũng vậy. Đừng vướng mắc vào điều nhỏ nhặt ấy. Đừng phân biệt tốt xấu. Phá giới không hại gì”.

 

Khi chưa thọ giới, quý vị có làm điều gì cũng không kể là phạm giới. Nhưng một khi đã thọ giới, chẳng hạn, giới cấm sát sinh, nếu chúng ta có hành động sát sinh, tất nhiên là phạm giới rồi. Tại sao? Vì quý vị biết rõ hành động đó là sai lầm nhưng vẫn phạm phải. Nếu biết giới cấm trộm cắp, nhưng lại đi trộm cắp – vậy là phá giới.

 

Quý vị có tà dâm trước khi thọ giới, cũng không xem là phá giới – đây là hành vi PHẠM TỘI NHƯ CHƯA PHÁ GIỚI, VÌ CHƯA THỌ GIỚI. Nhưng khi quý vị đã THỌ GIỚI thì hành vi đó là phạm giới. Hành vi nói dối cũng như vậy.

 

Nhìn chung, tất cả những gì nếu quý vị biết, thì nói là biết, và nếu không biết, thì nói là không biết. Quý vị không thể nói không biết khi mình biết, hoặc nói biết điều mình không biết. Quý vị không thể nói quanh co này nọ. Cái tâm thẳng thắn chính là đạo tràng vậy. ( TRỰC TÂM LÀ ĐẠO TRÀNG )

 

Có vài người sẽ nghĩ: Vâng, vậy nếu tôi không THỌ GIỚI thì tôi không phạm giới, đúng không? Đúng vậy, vì Qúy-vị chưa thọ giới, nhưng PHẠM TỘI cho những HÀNH VI đã làm.

 

Cho nên, quý vị đã biết THỌ GIỚI nên làm, nếu như không thọ giới thì việc tu học của quý vị sẽ không thể tăng tiến được, cho dù có học Phật đạo cả đời cũng vậy. Do đó, biết thọ giới là điều tốt, chúng ta nên thọ giới và giữ GIỚI LUẬT  cho thật cẩn thận.

 

Đối với Ma vương, bọn chúng chỉ ra sức HỦY BÁNG  giới cấm, ngăn trở quý vị thọ giới. Chúng tán dương sự dâm dục. “Đó là đại sự”, chúng nói: “Càng dâm,  thì QỦA VỊ BỒ-TÁT của qúy vị càng cao. Chẳng hạn như Ucchushma,  mỗi ngày phải có từ hai trăm đến ba trăm phụ nữ, nhưng sau đó tu tập cũng trở thành Hỏa đầu Kim Cang.

 

Vậy là thế nào?”. Thực ra, ngay khi Ma vương lên tiếng khen ngợi sự dâm dục thì quý vị biết đó không phải là Phật chân chính rồi. Sự giả dối, lừa đảo, là hành vi si mê điên đảo. Phần trước chúng ta đã bàn qua.

 

Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si nên hòa hợp với ngoan, thành ra tám mươi bốn nghìn loạn tưởng khô cảo.

 

Và các LOẠI vô tưởng ấy hóa làm đất, cây, vàng, đá. Dĩ nhiên, không phải chúng vô tưởng nào cũng hóa ra như vậy – điều đó chỉ thỉnh thoảng xảy ra trong thời kỳ, giai đoạn nào đó. Ở đây, Ma vương khen ngợi sự hư giả, dối trá, chúng cho rằng ngu si là điều tốt, có như vậy chúng mới dễ dàng sai khiến. Khi quý vị tin tưởng chúng tất sẽ trở thành quyến thuộc của bọn ma quỷ ấy.

 

Gần đây, ở Ấn Độ xuất hiện cuốn sách đề cao pháp tu mật trong quan hệ nam nữ. Đây là sách của quỷ viết ra. Bọn chúng tán dương sự hành dâm và không muốn con người từ bỏ điều ấy. CHÚNG BẢO HÀNH DÂM SẼ ĐƯỢC THÀNH PHẬT. Thế nhưng Phật là thanh tịnh, là trong sạch, không tạp nhiễm những hỗn loạn, nhơ bợn.

 

Trong ngôn ngữ Trung Quốc, chữ “Hôn” trong kết hôn, gồm chữ nữ () ghép với chữ hôn (), có nghĩa là hỗn loạn, hôn ám. Như vậy, từ kết hôn cũng đã hàm ý sự đánh mất trí huệ. Đời sống con người như tiêu phí trong đêm, trong bóng tối và bất tịnh. Điều đó cũng như ngủ ngày, khi ngủ thì hầu như quên hết mọi sự. Đấy là si, là mê, và từ kết hôn trong tiếng Trung có ý nghĩa biểu tượng như vậy.

 

Tuy nhiên, khi tôi nói về kết hôn, không phải mọi trường hợp đều như vậy. Quý vị phải nhìn vấn đề linh động hơn, không thể cứ chết cứng theo quan điểm của mình. Mặc dù tôi nói kết hôn là sự phức tạp, rối rắm, thì quý vị phải cố gắng hiểu rõ sự phiền tạp ấy. Quý vị có thể dấn vào mọi sự phiền tạp, nhưng đừng để bị quay cuồng trong việc hỗn độn ấy. Đức Thích Ca Mâu Ni kết hôn, nhưng Ngài vẫn sáng suốt hơn người. (ĐÂY LÀ THỊ HIỆN CÓ VỢ CON, CŨNG NHƯNG NHÀ ẢO SƯ, VÌ AI THÀNH PHẬT, ĐỀU LÀ VỊ BỒ TÁT NHẤT SANH BỔ XỨ, NHƯ DI LẶC BỒ TÁT VẬY, KHÔNG CÒN CÓ TÁNH DÂM DỤC.)

 

Khi quý vị nghe nói người ăn năm loại rau cay sẽ có quỷ đến hôn lên môi miệng người đó, quý vị có cảnh giác không? Nếu không sợ hãi, các vị sẽ thấy điều đó chẳng là gì cả. Còn như xem đấy là lời nhắc nhở cảnh tỉnh, hãy dừng ăn năm loại rau ấy. Nếu không dùng, Thiện thần sẽ gia hộ quý vị, còn bọn quỷ thần thì lánh xa. Nếu quý vị kết hôn và luôn cảnh giác, luôn thức tỉnh, quý vị sẽ không sa vào những mê mời hỗn loạn và phức tạp. Quý vị cũng đừng hiểu lầm rằng tôi, phản đối sự kết hôn của mọi người – Không phải vậy. Ở đây, tôi chỉ nói qua vài điểm cơ bản trong vấn đề kết hôn mà thôi.



KINH VĂN:

 

自為魔王    屬。受魔 盡。墮無間獄。

Mạng-chung tự vi ma-vương quyến-thuộc, thọ ma-phước tận, đọa Vô-gián ngục.   

 

VIỆT DỊCH:

 

Đến khi mệnh chung, tự người ấy làm quyến thuộc của Ma vương, khi hưởng thụ phúc Ma đã hết, thì đọa địa ngục vô gián.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

Đến khi mệnh chung, tự người ấy làm quyến thuộc của Ma vương.

 

Đây là nói đến người ăn năm loại rau cay. Bởi vì ăn như thế, các Thiện thần, Bồ tát sẽ không ủng hộ họ. Do đó, các Ma vương có thế lực sẽ tiến đến bên họ. Ma vương biến làm thân Phật và nói pháp của quỷ, ngợi khen dâm dục, tức giận và ngu si.

 

Sự hỗn loạn của quỷ làm con người đánh mất đi trí tuệ chân chính, thay vào đó là tà kiến, tà đạo. Ma vương bảo dâm là điều tốt, hãy tin như vậy:

 

“Phật đã nói với tôi như thế! Ngài bảo chẳng hề gì đâu!”. Cái đó gọi là NHẬN kẽ cướp  làm con . Đấy là nhận Ma vương thành ra Đức Phật. Vậy nên: “Khi mệnh chung, họ sẽ trở thành quyến thuộc của Ma vương”. Khi phúc báo thế gian đã hết, họ chết đi và ngoan ngoãn theo bọn ma.

 

Khi hưởng thụ phúc Ma đã hết, thì đọa địa ngục vô gián. Quỷ ma cũng có cái phúc riêng của chúng. 


Có người tu niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nhưng người này đặc biệt rất ham thích vàng bạc. Anh ta niệm danh hiệu Phật chỉ vì nghe nói nơi Tịnh độ, đất toàn bằng vàng, y hình dung khi được ở nơi đó, mình sẽ có vô số vàng. Ngày nọ, anh ta thấy Phật A Di Đà đến, bảo: “Hôm nay ngươi vãng sinh Cực lạc, hãy lấy vàng, bạc của ngươi mang theo”. Vì vậy, anh ta đặt bốn trăm đến năm trăm lạng vàng lên tòa sen của  đức Phật A Di Đà đang cầm. Nhưng trước khi anh ta có cơ hội lên tòa sen, thì tất cả đều biến mất – “Ồ!”. Người đó nghĩ: “Thì ra Phật Di Đà cũng ham tiền. Ông ấy lấy hết vàng của mình rồi!”.


Trong khi đó, trong gia đình anh ta có một con lừa mới sinh ra đã chết. Mọi người thấy bụng con lừa căng cứng và nặng, khi mổ ra xem thì lạ thay! Vàng, bạc từ bụng con lừa đổ ra. Đến lúc ấy mới biết rõ  lòng tham của mình nặng thế nào, và anh ta vui mừng vì chưa đi theo  Phật A Di Đà, vì nếu anh ta đi, thì đã biến thành con lừa nhỏ đó rồi. Hẳn nhiên, anh ta biết hình ảnh Phật A Di Đà kia hiện đến không phải là Phật thật.


Nhiều chuyện lạ như thế, vậy Phật Di Đà có thật không? Hẳn nhiên là có thật rồi. Nhưng vì tri kiến con người lệch lạc nên không phân biệt được đâu là thực, đâu là giả. Trong trường hợp đó chúng ta phải làm thế nào? Phải hết sức cẩn thận đừng tham lam. Bất cứ ai có tư tưởng vãng sinh Cực lạc để có được vàng sẽ chẳng được gì hết. Mặc dù đất Tịnh độ toàn vàng ròng, quí vị cũng chẳng sở hữu cho riêng mình được tí gì. Tu hành là buông bỏ mọi ý tưởng sở hữu.


Đoạn Kinh văn này nói về người ăn năm loại rau cay, tri kiến lệch lạc, sa vào tà kiến, đầu tiên họ trở thành quyến thuộc của Ma vương, sau đó thì đi vào địa ngục. Đoạn lại đi dâu nữa? Không ai biết được.



KINH VĂN:

 

阿難。修菩提者永 斷五辛。是則名為第一增進修行漸次。

A - Nan! Tu Bồ - đề  giả, vĩnh đoạn ngũ tân, thị   tắc  danh  vi  đệ  nhứt tinh-tấn, tu-hành tiệm-thứ.

 

VIỆT DỊCH:

 

A Nan, người tu đạo Bồ đề phải đoạn hẳn năm loại rau cay, đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

A Nan, ông nghe đấy chứ? Người tu đạo Bồ đề bất cứ người nào theo đạo Bồ đề - phải đoạn hẳn năm loại rau cay. Quý vị phải quyết định dứt khoát không dùng tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén. Nếu cứ ăn các thứ ấy, cuối cùng quý vị sẽ cùng Ma vương ở cùng một nơi, còn tránh đi, tất sẽ cùng chư Phật hội tụ một chỗ.

 

Đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất. Bước tăng tiến thứ nhất trong việc tu hành. Trong tu tập, phải dứt bỏ mọi căn nguyên sinh ra nghiệp ác. Năm loại rau cay là trợ lực cho các Ma vương. Quý vị đừng coi thường, ngũ tân sẽ khiến quý vị mê mờ, hỗn loạn, nó làm chúng ta thành bất tịnh, sự bất tịnh đó càng làm Ma vương thêm thích thú.



2. THẾ NÀO LÀ TÁNH CỦA NGHIỆP ?

 

KINH VĂN:

 

云何正性。阿難。如是眾生入三摩地。要先嚴持清淨戒律。

Vân-hà chánh tánh? A-Nan! Như thị chúng sanh, nhập Tam-ma- địa,       yếu tiên nghiêm trìthanh-tịnh giới-luật. 

 

VIỆT DỊCH:

 

Thế nào là tánh của nghiệp ?

 

A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

Giai đoạn tiệm thứ đầu tiên là dứt trừ trợ nhân, chẳng hạn như thích ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt…. Giai đoạn thứ hai  là tánh của nghiệp. 



Thế nào là tánh của nghiệp ? A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh. 



“Tánh của nghiệp” tức là do NGHIỆP THỨC PHÂN BIỆT sanh khởi . Khi nghiêm trì giới luật, thì chuyển THỨC  thành TRÍ . “Chủ yếu” là phải bền lâu, lấy giới luật làm THẦY để tu hành.



Bất cứ điều gì quý vị đã làm trước khi thọ giới đều không kể là phạm giới, vì quý vị chưa thọ giới, nhưng PHẠM TỘI cho việc làm của mình. Chưa thọ giới thì không phải là phạm giới. Nhưng một khi mình đã thọ giới rồi thì dứt khoát không bao giờ cố ý sai phạm. 



Trước khi thọ giới, quý vị có thể thích LÀM những gì theo Ý MÌNH, nhưng khi đã thọ giới thì chúng ta không nên phạm phải những sai lầm như trước đó.

 


KINH VĂN:

 

永斷婬心。不餐酒肉。以火淨食。無噉生氣。阿難。是修行人。若 及與殺生。出三界者。無有是處。

Vĩnh-đoạn dâm-tâm, bất xan tửu-nhục, dĩ  hỏa  tịnh  thực, vô diệm sanh khí. A-Nan! Thị tu-hành nhân, nhược bất đoạn dâm cập giữ sát-sanh, xuất tam-giới giả, vô hữu thị xứ.     

 

VIỆT DỊCH:

 

Đoạn hẳn TÂM dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn DÂM dục và SÁT sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy.

 

 

GIẢNG GIẢI:

 

Đoạn hẳn TÂM dâm.

 

Qúy-vị  phải đoạn trừ những Ý-NGHĨ dâm dục trong tâm.  “TÂM dâm” là yêu thích và ham muốn các điều sai quấy, nó xuất phát từ vô minh. Lòng yêu thương KHÔNG bắt nguồn từ vô minh là loại tình cảm như của người chồng, người vợ, hoặc người con... – đây là tình cảm xuất phát từ BỔN PHẬN trong NHÂN LUÂN  muốn người khác được vui vẻ, hoàn toàn không có tính ích kỷ, vui theo THAM DỤC.

 

Họ phải chẳng dùng rượu thịt.

 

Họ chỉ dùng các thức chay trong sạch. Cái hại của RƯỢU, THỊT là gì? Rượu và các chất cồn thường làm tâm tính hỗn loạn. Khi dùng chất cồn, quý vị sẽ không tập trung tinh thần được, nhất là khi chúng ta ưa thích uống thức này.

 

Trước đây, tôi có kể qua câu chuyện một người dùng chất say mà phạm các giới. Một người nếu không uống rượu, tâm trí anh ta sẽ không hỗn loạn, không có những hành động điên đảo. Một lý do khác nữa là mùi rượu, cồn, có tính hấp dẫn người, quỷ, nhưng các Bồ tát, Thiện thần đều lánh xa. Họ không thích mùi hăng nồng như thế. Bồ-tát và các A-la-hán xem mùi rượu cũng như chúng ta đối với mùi nước tiểu vậy.

 

Đối với họ đó là mùi hôi hám rất khó chịu. Con người không thích gần gũi nhà vệ sinh, hầm phân, cống, rãnh, thế nhưng họ lại dành nhiều thời gian thưởng thức các món ăn rất hôi hám, khó chịu. Hơn nữa, rượu và thịt rất kích dục. Người tu hành chắc chắn sẽ lánh xa các thức ăn uống ấy.

 

Họ chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống.

 

Các thức ăn phải được nấu chín, ngay cả rau cải cũng phải vậy, vì ăn rau sống dễ sinh lòng nóng giận.

 

A Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy.

 

Dâm dục” ở đây là nói người XUẤT GIA, còn người TẠI GIA thì gọi là  TÀ DÂM, là tư tưởng bất chính đối với người học Phật. Còn lại nghĩ, DÂM DỤC cũng có thể trở thành PHẬT, là người PHÁ KIẾN, khó mong được SÁM HỐI.




BA TIỆM THỨ TU TẬP


 

"A-nan, như thế, chúng-sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ hết 12 thứ điên-đảo. Cũng như dụi con mắt, thì hoa-đốm đủ thứ phát-sinh ra, chân-tâm diệu-viên trong-sạch sáng-suốt mà điên-đảo, thì đầy-đủ những tư-tưởng càn-loạn giả-dối như vậy. Nay, ông tu-chứng Tam-ma-đề của Phật, thì đối với những tư-tưởng càn-loạn, làm nguyên-nhân cỗi-gốc của các điên-đảo, nên lập ra ba tiệm-thứ mới trừ-diệt được, cũng như, trong khí-mãnh trong-sạch, trừ-bỏ mật-độc, dùng nước nóng và các thứ chất tro, chất thơm rửa-sạch khí-mãnh rồi, về sau, mới đựng nước cam-lộ.

 

"Thế nào gọi là ba tiệm-thứ? Một là tu-tập, trừ các trợ-nhân; hai là chân-tu, nạo-sạch chính-tính; ba là tăng-tiến, trái lại hiện-nghiệp.

 

Thế nào là trợ-nhân? A-nan, 12 loài chúng-sinh đó trong thế-giới, không thể tự-toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà an-trụ, nghĩa là, nương theo đoạn-thực, xúc-thực, tư-thực và thức-thực; vậy nên Phật bảo tất-cả chúng-sinh, đều nương với cái ăn mà an-trụ. A-nan, tất-cả chúng-sinh, ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết; vậy, các chúng-sinh, cầu Tam-ma-đề, nên dứt-bỏ năm thứ rau-cay trong thế-gian. Năm thứ rau-cay nầy, ăn chín, thì phát lòng-dâm, ăn sống, thì thêm lòng-giận. Những người ăn rau-cay đó, trên thế-giới, dù biết giảng nói 12 bộ kinh, thiên-tiên 10 phương, hiềm vì nó hôi-nhớp, đều tránh xa cả; các loài ngạ-quỷ, vân vân... nhân trong lúc người kia ăn rau-cay, liếm môi-mép của người đó; người ấy thường ở với quỷ một chổ, phúc-đức ngày càng tiêu, hằng-lâu không được lợi-ích. Người ăn rau-cay đó, tu phép Tam-ma-đề, Bồ-tát, Thiên-tiên, Thiện-thần thập phương không đến giữ-gìn ủng-hộ; Đại-lực Ma-vương được phương-tiện đó, hiện ra thân Phật, đến thuyết-pháp cho người kia, chê-phá cấm-giới, tán-thán dâm-dục, nóng-giận, si-mê; đến khi mệnh-chung, tự mình người ấy làm quyến-thuộc của Ma-vương; khi hưởng-thụ phúc ma hết rồi, thì đọa vào ngục Vô-gián. A-nan, người tu đạo Bồ-đề, phải đoạn-hẳn năm thứ rau-cay; ấy gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ nhất.

 

Thế nào là chính-tính? A-nan, chúng-sinh như vậy vào Tam-ma-đề, cốt-yếu trước hết, phải nghiêm-chỉnh giữ giới thanh-tịnh, đoạn-hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ-ăn trong-sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan, người tu-hành đó, nếu không đoạn dâm-dục và sát-sinh, mà ra khỏi được ba cõi, thì thật không có lẽ như vậy. Nên xem sự dâm-dục như là rắn-độc, như thấy giặc-thù. Trước hết, phải giữ tứ-khí, bát-khí của giới-luật Thanh-văn, nắm-giữ cái thân không lay-động; về sau, hành-trì luật-nghi thanh-tịnh Bồ-tát, nắm-giữ cái tâm không móng lên. Cấm-giới đã thành-tựu, thì ở trong thế-gian, hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau; đã không làm việc trộm-cướp, thì không còn mắc nợ nhau  và cũng khỏi phải trả các nợ kiếp trước trong thế-gian. Con người thanh-tịnh ấy, tu phép Tam-ma-đề, chính nơi nhục-thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên-nhãn, tự-nhiên thấy được thập phương thế-giới, thấy Phật nghe Pháp, chính mình vâng-lĩnh thánh-chỉ của Phật, được phép đại-thần-thông, đi khắp thập phương thế-giới; túc-mạng được thanh-tịnh, không còn những điều khó-khăn nguy-hiểm; ấy gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ hai.

 

Thế nào là hiện-nghiệp? A-nan, người giữ-gìn cấm-giới thanh-tịnh như vậy, tâm không tham-dâm, không hay giong-ruổi theo lục-trần ở ngoài; nhân không giong-ruổi, tự xoay lại về tính bản-nguyên; trần đã không duyên, thì căn không ngẫu-hợp với đâu nữa; trở-ngược dòng về chỗ toàn-nhất, sáu cái dụng không hiện-hành, cõi-nước mười phương sáng-suốt thanh-tịnh, ví-như ngọc lưu-ly, có mặt trăng sáng treo ở trong ấy. Thân tâm khoan-khoái, tính diệu-viên bình-đẳng, được đại-an-ẩn, tất-cả mật-viên tịnh-diệu các đức Như-lai đều hiện trong đó; người ấy liền được Vô-sinh-pháp-nhẫn. Từ đó, lần-lượt tu-tập, tùy cái hạnh phát ra mà an-tập các thánh-vị, đó gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ ba.

 

 

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

QUYỂN TÁM


Hán dịch: Bát Thích Mật Đế





Việt Dịch:  CƯ SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM 

(1897 - 1969)


Comments

Popular posts from this blog