Shurangama Mantra with Verses and Commentary

by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua




436. A MẠT ĐÁT RỊ CHẤT ĐA

阿末怛唎質多

AMAITRA CITTĀ 

 

 

Ác niệm độc Chú quỷ kiến sầu

Thiên đường địa ngục tự ngao du

Hiệu pháp Thánh hiền vô lượng huệ

Đại tai linh văn cứu khổ ưu.

 

惡念毒咒鬼見愁

天堂地獄自遨遊

效法聖賢無量慧

大哉靈文救苦憂




UM! A MẠT ĐÁT RỊ CHẤT ĐA.


HÀNG PHỤC QUỶ ÁC NIỆM, 

PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.



KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT


PHẦN CHÁNH-TÔNG


DUYÊN KHỞI 

 

CÂU “NIỆM PHẬT” LÀ PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI


GỒM CHÂN-NHƯ CÙNG A-LẠI-DA DUYÊN KHỞI, DUNG NHIẾP CẢ “TÌNH” VÀ TƯỞNG” , HỮU LẪN KHÔNG.

VÀ SAU KHI LÂM CHUNG ĐƯỢC SANH VỀ CÕI PHẬT A-DI-ĐÀ. 



Nầy Diệu-Nguyệt cư sĩ ! Trong thời kỳ Chánh pháp diệt tận, chúng sanh nơi cõi Diêm-phù-đề TÌNH nhiều TƯỞNG ít, tâm địa bỏn sẻn, tham lam ghét ganh, các căn lành phước báo kém cỏi. Lúc sanh tiền thọ nhận đủ loại nghiệp dữ, sau khi mạng chung sẽ chịu các quả báo đau khổ trong ba nẻo ác dữ với hạn kỳ lâu dài. Vì thế mà chư Phật khắp mười phương xót thương vô cùng, luôn luôn tìm cách cứu trừ khổ não cho các hạng chúng sanh kia.

Các đức Như-Lai hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên dương diệu pháp bí áo sâu xa cho những bậc Thánh giả, hiền nhân - mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về tưởng.

Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát-na tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát-na tâm sanh diệt. 

Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.


Một câu A Di Ðà
Là duyên khởi pháp giới
Chánh nhân của Tịnh nghiệp
Và chủng tử Bồ Ðề.

(Nhứt cú Di Ðà
Pháp giới duyên khởi
Tịnh nghiệp chánh nhân
Bồ Ðề chủng tử.)


Lược giải:

 

Phật Pháp chia thành hai hệ: Không tông và Hữu tông. Không tông đề ra thuyết Chân Như Duyên Khởi; Hữu tông đề ra thuyết A-lại-da Duyên Khởi. Dung nhập vào Trung Ðạo, tức Nhứt Chân Pháp Giới thì Không và Hữu chẳng khác, Chân Như tức A-lại-da.

Ðây ý nói câu niệm Phật là huyễn hữu, cũng lại là Chân Không, duyên khởi điểm của nó từ nơi pháp giới. Vậy câu niệm phật là Pháp Giới Duyên Khởi, gồm Chân Như cùng A Lại Da duyên khởi, dung nhiếp cả Hữu lẫn Không.

Bởi thế nên Niệm Phật là chánh nhân của Tịnh nghiệp. Tịnh nghiệp đây gồm bốn Tịnh Ðộ mà tiêu điểm cuối cùng là cõi Thường Tịch Quang. Và Niệm Phật cũng là hạt giống Bồ Ðề đưa đến sự Toàn Giác, gồm giác ngộ mình, giác ngộ chúng sanh, hạnh giác ngộ đầy đủ.


CHO NÊN, DÙ CHO QÚY-VỊ TU THEO PHÁP MÔN NÀO CŨNG ĐỀU ĐƯỢC VIÊN-THÔNG VÔ-NGẠI. TẠI SAO VẬY ? VÌ LÀ TỪ PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI, GỒM CHÂN-NHƯ CÙNG A-LẠI-DA DUYÊN KHỞI, DUNG NHIẾP CẢ TÌNH”  TƯỞNG” , HỮU LẪN KHÔNG 


TÌNH là Tưởng U-ÁM, Tưởng VIỆC LÀM  ÁC... 

THÌ SẼ LÀM ÁC (PHIỀN NÃO CHƯỚNG)



TƯỞNG là Tưởng THÔNG SÁNG, Tưởng VIỆC LÀM THIỆN...

THÌ SẼ LÀM THIỆN NHƯ CÒN CHẤP VIỆC THIỆN, 

CHẤP CẢNH GIỚI TU CHỨNG (SỞ TRI CHƯỚNG)




ĐƯƠNG TRI MÊ (TÌNH ) NGỘ (TƯỞNG), ĐỒNG NHỨT CHÂN-TÂM.

PHẢI BIẾT : LÚC MÊ, LÚC NGỘ, CÓ CÙNG 1 CHÂN-TÂM.


ĐẠI TAI DIỆU MÔN, NGUYÊN-NHÂN CHÍ THỬ.

RỘNG LỚN THAY, PHÁP MÔN “VI-DIỆU VIÊN-ĐỐN”, XÉT CÙNG TỘT  NGUYÊN-NHÂN NGUỒN-GỐC CỦA LOÀI NGƯỜI LÀ “CHÂN-TÂM”.


HOA-NGHIÊM NGUYÊN-NHÂN LUẬN của Sa-môn TÔNG-MẬT, chùa QUÊ-PHONG.



Vì sao vậy ? Vì pháp của Như Lai là chân thật, là giải thoát, là an vui, là thuận theo sở cầu, sở nguyện của mọi chúng sanh. Vì pháp của Như-Lai là vắng lặng, không dính mắc, vô cấu nhiễm, thuận theo tình và tưởng của chúng sanh mà vẫn giúp chúng sanh thành tựu địa vị Phật Đà, không bị hư hoại, cho nên chẳng cần phải chán ghét lìa bỏ thế gian, ở trong chỗ ràng buộc mà tâm vẫn tự tại, thọ dụng pháp lạc. Và sau khi lâm chung được sanh về cõi Phật A-Di-Đà".




TẤT CẢ CHÚNG SINH, THẬT VỐN CHƠN TÁNH THANH TỊNH

DO TÌNH, TƯỞNG CÙNG VỚI TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI PHẢI SANH TRONG 7 LOÀI 



Đức Phật nói lời đây rồi, khi ấy A-nan và cả đại chúng được nhờ Như Lai mở bày nghĩa mật ấn Bát-đát-la, và được nghe những tên gọi của kinh liễu nghĩa này, liền đốn ngộ thiền-na, tăng thượng diệu lý, tu tiến đến Thánh vị, tâm lự được rỗng rang lắng đọng, đoạn trừ được sáu phẩm phiền não vi tế tu tâm trong tam giới. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:

- Đức Thế Tôn có oai đức lớn dùng lời từ bi không ngăn ngại, khéo mở bày cho chúng sanh những mê lầm vi tế sâu kín, khiến ngày nay thân tâm con được vui thích được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn, nếu chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt ngày xưa nay là tròn khắp, như thế cho đến đại địa cỏ cây, các loài sinh vật nhuyễn động, cội gốc là chân như, tức là chân thể thành Phật của Như Lai, Thể tánh của Phật là chân thật, tại sao lại có các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời?

Theo lời Phật dạy, tất cả chúng sanh đều từ một chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt mà ra. Như vậy tất cả thế giới, cỏ cây, mọi loài sinh vật vốn từ chân như, tức thể tánh chân thật của Phật. Vậy sao lại sanh ra sáu đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v... Đây là câu hỏi rất hệ trọng, những người tu Phật nếu không rành, khi bị người ta hỏi sẽ lúng túng không thể nào đáp được. Hơn nữa, chính mình trên đường tu cũng đâm ra hoang mang. Cho nên những câu hỏi này chúng ta phải chú tâm nhớ kỹ, hiểu rõ, mới thấy giá trị của lời Phật giải thích cho ngài A-nan.

Bạch Thế Tôn, sáu đường này là xưa nay tự có hay do vọng tập của chúng sanh sanh khởi?

Câu hỏi thứ hai cũng rất hệ trọng. Như hiện nay chúng ta thường nghe có nhiều người hỏi: "Cảnh địa ngục, ngạ quỷ là do ai sắp bày sẵn, hễ phạm tội liền xuống đó hay do chúng sanh làm tội mà tự có ra?" Thời nay, có người nặng về lý, giảng là không có địa ngục nào hết, nếu mình làm xấu làm ác thì lương tâm cắn rứt giày vò, tức là địa ngục. Đó là một lối giải bất chấp lời Phật dạy. Phật đã nói có lục đạo luân hồi. Nhưng lục đạo luân hồi từ đâu mà có? Nó đã sẵn từ thuở nào hay do sự huân tập nghiệp của chúng sanh mới có? Đó là vấn đề rất then chốt.

Bạch Thế Tôn, như Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương giữ giới Bồ-tát mà lén làm việc dâm dục, nói dối rằng hành dâm không phải là giết hại, không phải là trộm cướp, nên không có nghiệp báo. Khi nói lời ấy rồi, trước hết nơi nữ căn phát ra ngọn lửa cháy rực, sau đó từng phần thân thể đều bị lửa lớn thiêu đốt, đọa vào địa ngục Vô gián.

Vua lưu-ly và Tỳ-kheo Thiện Tinh, vua Lưu-ly vì giết dòng họ Cồ-đàm, Tỳ-kheo Thiện Tinh vì nói dối tất cả pháp đều không, ngay thân đang sống mà rơi vào địa ngục A-tỳ. Các địa ngục này là có chỗ nơi nhất định hay lại là tự nhiên, do mỗi người kia phát nghiệp, chỉ mỗi người nhận riêng?

Địa ngục là sẵn có cố định, ai làm tội đều phải vô đó, hay là do những người kia tạo nghiệp rồi tự họ cảm nhận cảnh địa ngục riêng cho mình, chứ không có địa ngục chung?

Câu chuyện vua Lưu-ly giết dòng họ Thích-ca, trong kinh Tăng Nhất A-hàm kể rằng: Vua Ba-tư-nặc cầu hôn con gái họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ, nếu không bằng lòng sẽ dùng áp lực bức bách. Họ Thích thuộc dòng dõi lớn, không muốn kết thân, bèn đem con gái của Ma-ha-nam do một nữ tỳ sanh ra, diện mạo đoan chánh, cho mặc áo đẹp, ngồi xe vũ bão, đưa đến cho vua Ba-tư-nặc nói dối là công chúa con vua Ma-ha-nam. Vua Ba-tư-nặc lập công chúa làm đệ nhất phu nhân, sanh con trai là Tỳ-lưu-ly. Vua rất yêu thương thái tử. Khi Tỳ-lưu-ly lên tám, vua gửi sang bên ngoại, cho học bắn cung cùng năm trăm trẻ dòng họ Thích.

Bấy giờ trong thành Ca-tỳ-la-vệ mới dựng một giảng đường, chuẩn bị rất trang nghiêm. Những người dòng họ Thích định thỉnh Phật cùng chúng tăng đến đó để cúng dường. Thái tử Lưu-ly cùng năm trăm đứa trẻ đến giảng đường, leo ngay lên tòa sư tử. Những người họ Thích trông thấy hết sức giận dữ, bèn lôi Tỳ-lưu-ly kéo ra ngoài cửa, xô xuống đất mắng: "Đây là đứa con của nô tỳ, chư thiên và mọi người chưa có ai dám vào đây, mà đứa con nô tỳ này dám vào đây ngồi!"

Tỳ-lưu-ly bảo một người con của Phạm chí tên là Hiếu Khổ rằng: "Họ Thích hủy nhục ta đến thế này. Về sau nếu ta nối ngôi vua, ông nên nhắc ta chuyện này." Từ đó, mỗi ngày người con Phạm chí tâu nhắc ba lần: "Hãy nhớ mối nhục họ Thích." Đến khi thái tử Lưu-ly lên ngôi, Hiếu Khổ nhắc lại chuyện xưa, vua nổi giận dẫn bốn bộ binh đến nước Ca-tỳ-la-vệ.

Phật muốn can gián vua Lưu-ly, bèn đến một cây khô không cành lá bên đường, ngồi kiết già. Vua Lưu-ly từ xa thấy Phật ngồi, liền xuống xe cúi lạy rồi hỏi:

- Có những cây tốt cành lá sum suê, sao Ngài lại ngồi dưới cây khô này?

- Bóng mát của thân tộc hơn hẳn người ngoài.

Vua Lưu-ly liền nghĩ:

"Hôm nay Thế Tôn cố vì thân tộc. Vậy ta nên trở về, chẳng nên chinh phạt Ca-tỳ-la-vệ."

Về triều nghe lời nhắc lại, vua tức giận lại kéo quân đi đánh. Nửa đường lại thấy Phật ngồi dưới cây khô và nói như lần trước, vua trở về. Lại được nhắc mối nhục xưa, vua kéo quân đi đánh nữa. Lần thứ ba này, tôn giả Đại Mục-kiền-liên muốn cứu dòng họ Thích, nhưng Phật nói: "Hôm nay họ Thích túc duyên đã chín, sẽ thọ báo."

Những người dòng họ Thích đều trì giới, tu hành pháp lành, nên dù có quân binh mạnh vẫn không chống cự. Vua Lưu-ly giết hết dòng họ Thích, quanh thành Ca-tỳ-la-vệ máu chảy thành sông. Bảy ngày sau, vua Lưu-ly và quân lính, khi đến bên bờ sông A-chi-la vui chơi và nghỉ đêm, bị nước lớn cuốn trôi ra biển, chết sanh vào địa ngục A-tỳ.

Tỳ-kheo Thiện Tinh là con trai của thái tử Tất-đạt-đa, ngài thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai bộ kinh, chứng được tứ thiền. Vì gần gũi bạn ác nên mất tứ thiền, sanh kiến chấp tà ác mà nói rằng không Phật, không pháp, không nhân quả, không có tạo nghiệp, không có Niết-bàn. Phật thường thuyết pháp cho Tỳ-kheo Thiện Tinh mà ông không có lòng tin thuận. Khi ông đang ở gần sông Ni-liên-thiền, thấy Phật từ xa đi đến, ông liền sanh tâm tà ác. Do tâm ác này thân đang sống đọa vào địa ngục A-tỳ.

Tại Việt Nam, những năm về trước có xảy ra trường hợp "trời trồng". Có những người làm tội ác, cầm dao hay cầm cây đánh cha mẹ thì tự nhiên đứng sững, rồi từ từ lún xuống, đó là ngay thân đang sống rơi vào địa ngục.

Tóm lại, câu hỏi thứ nhất: Tất cả chúng sanh đều từ nơi chân như, chư Phật cũng trở về chân như, tại sao chân như đó lại sanh ra lục đạo chúng sanh?

Câu hỏi thứ hai: Lục đạo chúng sanh phát sanh ra, đó là tự sẵn có hay do chúng sanh tạo nghiệp rồi mới có?

Câu hỏi thứ ba: Những nghiệp chúng sanh gây tạo, hiện đời thấy đọa địa ngục, địa ngục có sẵn nhất định, ai phạm tội thì rơi xuống, hay do chúng sanh phát nghiệp nên mới có địa ngục đó?

Nếu chúng ta hiểu ba câu hỏi thiết yếu này, ắt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà lâu nay có thể chưa nắm vững.

Cúi mong đức Thế Tôn rủ lòng đại từ mở rộng cho kẻ mới vào đạo, khiến cho tất cả chúng sanh trì giới, nghe được nghĩa quyết định, vui vẻ tôn trọng kính cẩn gìn giữ cho trong sạch, không trái phạm.

Phật bảo A-nan:

- Hay thay câu hỏi này, khiến cho các chúng sanh không vào tà kiến. Nay ông lắng nghe kỹ, ta sẽ vì ông nói.

Này A-nan, tất cả chúng sanh thật vốn là chân như thanh tịnh, do vọng kiến kia mà có vọng tập sanh khởi. Nhân đây mà phân chia ra phần trong và phần ngoài.

Này A-nan, phần trong tức là phần trong của chúng sanh. Từ các ái nhiễm mà phát khởi vọng tình. Vọng tình chất chứa không thôi, hay sanh ra nước ái. Thế nên, tâm chúng sanh nghĩ nhớ đến những thức ăn ngon thì trong miệng liền ra nước miếng. Khi tâm nhớ lại những người xưa, người mình thương hoặc người mình giận thì nước mắt tuôn tràn.

Khi đói bụng mà nhớ đến những thức ăn ngon, tự nhiên trong lưỡi ra nước miếng. Khi nhớ lại những người đau khổ nhất thì trào nước mắt. Đó là hiện tượng của ái. Từ ái mà thành ra nước rơi xuống.

Người tham cầu tiền của thì tâm phát ra nước ái, toàn thân họ đượm ướt và sáng. Nếu tâm đắm trước sự hành dâm thì nơi nam căn, nữ căn tự nhiên có dịch chảy ra.

Những người thích của báu thì toàn thân họ đượm ướt, có vẻ hơi sáng. Điều này chúng ta ít thấy vì hiện tại hiếm có người ham tới cỡ đó, trừ những người đi bòn vàng, còn thường thì không thấy.

Tất cả những điều trên là bằng chứng cụ thể, cho thấy bên trong chúng ta tích lũy tình nhiều, dễ phát ra nước ái, là lý do đưa mình chìm xuống cõi dưới. Nước thì nặng nên rơi xuống, không thể chảy ngược lên, nên tình nhiều là trầm luân, không nghi ngờ gì. Ai tình cảm nặng quá thì coi chừng rơi xuống, chứ không đi lên nổi. Đó là kinh nghiệm bên trong con người, đức Phật kể rõ ràng như vậy, để biết nếu chúng ta chất chứa cái gì nhiều thì cái đó sẽ lôi mình đi.

Này A-nan, các thứ ái tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không thể bay lên được, tự nhiên theo đó mà rơi xuống. Đây gọi là phần trong.

Các thứ ái tuy khác nhau, hoặc thích món ăn, hoặc thương hoặc giận, hoặc ưa tiền bạc của báu, sắc đẹp... nhưng ái trước cái nào cũng ra nước, rơi xuống trôi đi, kết cuộc đều dẫn mình đi xuống, là đồng chứ không khác. Nên nói nghiệp ái dẫn đi xuống. Bên trong con người chất chứa những thứ đó thì rơi xuống, không nghi ngờ. Ái thuộc về tình, ái ít thì chìm cạn, ái nhiều thì nhất định chìm sâu.

Này A-nan, ngoại phần là phần bên ngoài của chúng sanh. Nhân các khát ngưỡng mà phát ra những hư tưởng. Tưởng đó tích chứa không thôi, hay sanh ra khí thù thắng.

Tưởng là phần bên ngoài, còn ái hoặc tình là phần bên trong. Khi mơ ước, trông mong khao khát một điều gì, do tích lũy sự tưởng tượng, mơ ước đó lâu ngày nên có sức mạnh, hơi mạnh đó đưa mình đi lên. Ví dụ như người khao khát muốn về Cực lạc, họ tưởng tới Phật, tưởng cõi Cực lạc. Bởi khao khát nên mới có mơ tưởng, tích lũy lâu rồi liền có diệu dụng. Còn người khao khát muốn thành tiên cưỡi hạc dạo chơi cõi trời, tưởng tiên lâu ngày cũng có hơi mạnh phát ra.

Thế nên, trong tâm chúng sanh giữ gìn giới cấm thì toàn thân nhẹ nhàng thanh tịnh. Tâm trì ấn chú thì mắt nhìn xem thấy mạnh mẽ kiên quyết. Tâm muốn cầu sanh cõi trời thì khi mộng thấy mình bay lên. Tâm nhớ cõi Phật thì cảnh Phật thầm hiện. Nếu thờ phụng thiện tri thức thì xem thường thân mạng. Này A-nan, các tưởng tuy khác nhưng nhẹ nhàng bay lên là đồng. Bay lên không chìm xuống, tự nhiên vượt lên. Đây gọi là phần bên ngoài.

Các tưởng tuy có khác: tưởng giữ giới, tưởng cõi Phật, tưởng sanh cõi trời, tưởng trì chú v.v... đều là đi lên.

Đến đây, chúng ta có thể sẽ có một điều nghi: Người muốn sanh lên cõi trời, cứ tưởng mãi thì thấy mình bay lên, muốn sanh về cõi Phật cứ tưởng mãi sẽ mộng thấy Phật hay thấy hoa sen, như vậy là tu có hiệu nghiệm. Còn người tu thiền thường không thấy gì hết, có phải là thua thiệt không? Do vì chúng ta tưởng mãi cái gì thì mộng thấy cái đó. Tu tịnh độ tưởng nhớ tới Phật nên mới thấy cảnh Phật, còn tu Thiền không cho mong tưởng, làm sao thấy!

Tại sao chúng ta không tưởng thấy Phật cho tốt? Bởi đây là đứng về mặt tình và tưởng: tình thì sanh trong các loài chìm sâu ở dưới, tưởng thì sanh lên các cõi ở trên, còn người tu thiền là dẹp cả tình lẫn tưởng. Không tưởng thì làm sao thấy có những cảnh mình mơ tưởng. Vậy người tu thiền sanh ở đâu? Do không muốn sanh nữa nên mới dẹp tình dẹp tưởng, tâm lặng lẽ như như bất động, cho nên gọi là "Bất động địa", không kẹt bên này bên kia.

Lại có người hoang mang, vì khi tu thỉnh thoảng thấy mộng dữ, hoặc những tật cũ đời nào. Bởi vì người tu thiền không tưởng thêm cái mới, chỉ bỏ cái cũ thôi. Nhưng trong khi đang trừ dẹp, tàng thức vẫn còn chứa những chủng tử nhiều đời, tốt xấu đều có. Ban ngày, chúng ta bỏ những chủng tử đang hiện hành trong hiện tại, còn những thứ chất chứa trong quá khứ chúng ta chưa làm chủ được, nên khi nằm mộng nó trồi lên. Những thứ chất chứa không phải hoàn toàn tốt, cho nên khi mộng có thể thấy những cảnh bất thường, dữ xấu làm mình hoảng hốt. Bởi vậy, các bậc thầy xưa dạy, nếu người tu thiền đêm mộng thấy những cảnh dữ, thức dậy phải sám hối, vì biết những chủng tử xấu ở trong còn nhiều.

Nếu thấy cảnh lành, như thấy mình đang thuyết pháp hoặc trong chùa có lễ lạt, thấy huynh đệ cùng tu hành, đó là mộng thấy trở lại chỗ sống hàng ngày, chứ không phải thấy cảnh mình tưởng ra. Đây là dấu hiệu tốt lành, cho biết chủng tử quá khứ đã nhẹ rồi, chỉ có cảnh hiện tại.

Hiểu thật kỹ, mới biết mỗi lối tu có ảnh hưởng rất nhiều tới tâm tưởng. Nếu không hiểu, khi thất lạ sanh ra hoảng hốt, không biết tại sao hồi trước niệm Phật, cầu sanh tịnh độ thì thấy mộng lành, nay tu thiền thấy mộng dữ. Ở đây Phật dạy rõ tình là thế nào, tưởng là thế nào. Khi tình nhiều, mộng thấy cảnh của tình, còn tưởng nhiều thì mộng thấy cảnh của tưởng.

Đó là nêu lên cho biết nơi con người chúng ta, vọng nghiệp chia ra làm hai phần: phần tích chứa ở trong là tình và phần ở ngoài là tưởng.

Này A-nan, tất cả thế gian sanh tử tiếp nối: sanh thì thuận theo tập nghiệp, còn tử thì theo biến chuyển.

Xưa huân tập những gì thì nay theo đó mà đi, gọi là thuận tập. Vậy nên nói sanh là thuận mà tử là nghịch, vì phá hoại cái hiện hữu này nên gọi là nghịch, còn theo chiều nghiệp cũ dẫn đi gọi là thuận.

Khi sắp mạng chung chưa hết hơi ấm, những việc thiện ác trong một đời đồng thời hiện ra.

Điều này giúp chúng ta hiểu rõ tinh thần của con người sắp mạng chung. Khi sắp chết, chưa hết hơi ấm, những nghiệp thiện ác đã làm trong đời mình liền hiện ra. Cho nên, nếu là thiện, như người niệm Phật thành công thì thấy chư Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí. Còn những người làm ác, khi ấy thấy cảnh dữ, liền đọa xuống địa ngục. Chỉ có những người nửa tình nửa tưởng được sanh làm người, lúc đó mới có việc chờ cha mẹ trong vòng bốn mươi chín ngày, mới có chuyện cầu nguyện cho họ. Ở đây Phật nói rất kỹ cho chúng ta biết rành rẽ.

Như vậy, nặng về tình thì đi xuống, nhiều tưởng thì đi lên, nhưng cũng không ngoài luân hồi. Nếu muốn hết luân hồi thì phải hết tình hết tưởng.

Chết là nghịch, sanh là thuận, hai tập nghiệp giao nhau.

Hai tập nghiệp sanh thuận và tử nghịch giao tiếp nhau. Chết là nghịch vì thân này bị hoại, sanh là thuận là đi theo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp mới, nên hai nghiệp mới cũ giao kết nhau.

Nếu thuần tưởng tức bay lên, ắt sanh trên cõi trời. Nếu bay lên mà trong tâm gồm đủ phước tuệ và nguyện thanh tịnh, thì tự nhiên tâm mở sáng, thấy được các cõi tịnh độ của chư Phật mười phương, tùy nguyện mà vãng sanh.

Nếu người thuần tưởng cõi tịnh độ, hay cõi đức Phật A-súc... không còn chút tình nào chen vào, có nguyện sanh về cõi đó, đồng thời làm phước tu tuệ đầy đủ thì khi lâm chung trí tuệ họ mở sáng, liền thấy cõi thanh tịnh của chư Phật mười phương, rồi tùy theo nguyện của mình mà sanh về cõi Phật, gọi là vãng sanh. Đó là tưởng cộng với phước, tuệ và nguyện, đủ bốn điều này thì sanh về cõi Phật.

Đây là lý do tại sao khi trong gia đình có người chết, đừng nên khóc mà phải tụng kinh. Khóc là tăng trưởng cái tình, tức là làm người chết chìm xuống các cõi dữ. Muốn nuôi dưỡng cái tưởng cho thuần khiết nên khuyên người sắp mất phải nhớ Phật, phải nghe kinh, để cho tâm tưởng nhẹ nhàng, dễ bay lên các cõi trên. Đó là điều thiết yếu.

Tình ít tưởng nhiều thì cũng nhẹ nhàng bay lên, nhưng không được xa, liền làm phi tiên, đại lực quỷ vương, phi hành dược-xoa, địa hành la-sát, dạo đi trong cõi trời Tứ thiên vương không bị chướng ngại.

Chừng chín phần tưởng một phần tình, hoặc tám phần tưởng hai phần tình thì cũng bay lên nhưng không xa, được tự tại ở trong khoảng trời Tứ thiên vương trở xuống. Chúng ta tự kiểm lại thì biết mình đang tới chỗ nào.

Trong đó nếu có những người tâm lành nguyện lành, hộ trì pháp Phật, ủng hộ giới cấm theo người giữ giới, hoặc ủng hộ thần chú theo những người trì chú, hoặc ủng hộ thiền định thì giữ yên pháp nhẫn, chính những người ấy được ở dưới tòa Như Lai.

Những người có tâm lành nguyện lành đó sẽ làm những vị thần để bảo vệ người giữ giới, người trì chú, người tu thiền định. Do đó họ luôn luôn ở dưới tòa Như Lai, tức là ở trong chùa, gọi là Hộ pháp, chứ không đi làm thần thánh các nơi khác.

Tình tưởng bằng nhau, không bay lên cũng không rơi xuống thì sanh ở nhân gian. Người tưởng sáng thì thông minh, người tình tối thì ngu độn.

Người sanh ở nhân gian, ai trước có tưởng nhiều hơn tình thì người đó thông minh, còn nếu tình nhiều thì ngu độn. Thử kiểm lại thì biết mình đời trước thuộc loại nào.

Nếu tình nhiều tưởng ít thì phải trôi giạt trong loài hoành sanh. Nếu nặng thì làm loài có lông, nếu nhẹ làm loài có cánh.

Nếu khoảng sáu phần tình bốn phần tưởng thì vào loài hoành sanh hay bàng sanh, tức là loài đi ngang, như trâu bò heo chó... Nặng thì làm loài thú có lông, nhẹ thì làm loài có cánh như chim chóc bay đi. Bây giờ nhìn lại mình tự biết mình thuộc loại nào, tương lai như thế nào, biết rõ chứ không nghi ngờ. Nếu tự đánh giá thấy tưởng nhiều thì tốt, còn nếu tình nhiều phải dẹp bớt lần lần.

Bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống thủy luân, sanh bên mé hỏa luân, nhận chịu hơi nóng bốc lên rất mạnh, thân làm ngạ quỷ, thường bị lửa đốt, vì nước có thể hại mình, không ăn không uống, trải qua trăm ngàn kiếp.

Trong nhà Phật nói ở ngoài trái đất là phong luân, kế đến thủy luân, hỏa luân, kim luân v.v... Người sanh ở giữa ranh giới thủy luân và hỏa luân này, do nhận chịu hơi lửa xông lên mà thân họ luôn luôn có lửa, trong miệng thường ra lửa, nên nói làm ngạ quỷ khổ vô cùng. Những người tự tử chết oan hay đọa làm ngạ quỷ, vì thắt cổ, uống thuốc độc... là nặng về tình mà chết, nên rơi vào loài này.

Chúng ta sống bảy tám mươi năm thấy cũng dài, ngạ quỷ sống cả trăm ngàn kiếp, tuổi thọ cũng không biết bao nhiêu. Nên làm loài đó rồi khó mà chuyển nổi, khổ quá không biết chừng nào mới tu được! Chúng ta thường nghĩ ngạ quỷ luôn đói khát là do không ai cúng cho họ ăn uống. Nước đầy cả sông cả biển, uống lúc nào cũng được, nhưng họ vẫn luôn luôn khát. Tại sao vậy? Vì nước có thể làm hại họ, thân họ như lửa, vào nước là tắt là chìm, nên họ không dám tới gần nước. Do đó khi cúng cho họ, phải tụng chú biến thực biến thủy, họ mới ăn uống được.

Vậy mới thấy, được làm thân người là rất quý. Mất rồi, nếu rơi vào những chỗ này không biết chừng nào mới trở lại làm người, thoát khỏi khổ đau!

Chín phần tình một phần tưởng thì chìm xuống thấu hỏa luân. Thân vào chỗ ranh giới giao nhau giữa phong luân và hỏa luân. Nếu nhẹ thì sanh nơi địa ngục hữu gián, còn nặng thì sanh địa ngục vô gián.

Địa ngục hữu gián là chỗ tra khảo còn có lúc nghỉ, còn tại địa ngục vô gián thì tra khảo suốt ngày suốt đêm không khi nào ngừng nghỉ.

Thuần tình thì chìm vào địa ngục A-tỳ.

Trọn mười phần tình, không có tưởng thì vào địa ngục A-tỳ, không biết chừng nào ra. Thế giới hoại, địa ngục A-tỳ vẫn chưa hoại.

Nếu trong tâm chìm vào đó mà còn chê bai Đại thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng nói pháp để tham cầu của tín thí, lạm nhận sự cung kính của người khác, phạm tội ngũ nghịch hoặc thập trọng thì lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở mười phương.

Trọn mười phần tình lại thêm những tội ngũ nghịch thập trọng thì sanh địa ngục A-tỳ, khi thế giới này hoại, địa ngục A-tỳ ở đây mất lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở thế giới mười phương khác. Ở đâu có thế giới, có địa ngục A-tỳ thì đều sanh vào đó, không biết đến chừng nào ra.

Theo nghiệp ác đã tạo, tuy là tự chiêu cảm quả báo, nhưng trong chúng đồng phần thì đã có chỗ sẵn.

Nếu hỏi rằng địa ngục là chỗ có sẵn hay do người tạo rồi mới có với người đó, đức Phật dạy: Tuy tùy nghiệp chúng sanh chiêu cảm mà có, nhưng vì nhiều người tạo nghiệp ác chiêu cảm như vậy, thành ra có chỗ sẵn.

Ví dụ như ở thế gian nếu người dân hiền lành không phạm luật pháp, không có ai tạo tội thì nhà nước đâu cất khám đường làm gì! Giả sử có một người hoặc hai người phạm, có lẽ cũng khỏi cất khám đường. Nhưng nếu cả trăm, ngàn người phạm tội, gọi là chúng đồng phần, nhiều người cùng chiêu cảm, phải có chỗ nhất định để giáo dục họ, hoặc phải có khám đường để chứa họ.

Như vậy có thể khẳng định là địa ngục có sẵn hay không có sẵn? Câu trả lời là: Không phải có ai tạo địa  ngục sẵn cho con người, chỉ do vọng nghiệp chúng sanh tạo tác, tự gây nhân rồi chuốc lấy quả, nên thấy có cảnh khổ phải chịu. Nhưng vì nhiều người tạo tác như vậy, cùng chuốc quả báo giống nhau, nên phải có cảnh nhất định cùng chung chịu khổ. Địa ngục rõ ràng như ở thế gian vậy.

Chúng ta học kỹ mới biết rõ tại sao mình được thăng, tại sao phải trầm. Vậy chúng ta phải như thế nào? Thăng trầm lên xuống là hai bên, chúng ta không nên kẹt một bên nào. Nếu chưa giải thoát được, thì thà là thăng chứ đừng trầm, khổ lắm!

Hãy thử xét nơi mình, nếu có nhân trầm nhiều thì phải ráng cạo gọt cho nhẹ bớt, đừng để tới sáu bảy phần tình là nguy. Năm phần tình là tối đa, để còn có thể trở lại làm người, tiếp tục tu nữa chứ quá phần đó thì nguy. Nhẹ thì làm các loài chim chóc cũng không tu được, cứ lẩn quẩn lo kiếm trái ăn. Nếu làm trâu bò, bị bắt kéo cày cực nhọc chịu sao nổi!

Tu là để chuyển hướng đi lên. Nếu người chưa thể đạt được giải thoát, nhờ chuyển hướng lên mà càng ngày càng nhẹ hơn. Còn người không biết tu cứ chìm ở trong tình thương ghét, do tình đó mà bị chìm sâu. Học kinh rồi mới thấy thương chúng sanh, thế gian này có mấy người biết tưởng, chỉ sống với tình thôi. Cứ giận người này, ghét người kia, thương người nọ, ngày ngày ngồi lại bàn nói chỉ có bấy nhiêu. Buồn, thương, giận, ghét... toàn là tình! Đeo mang tình đầy dẫy thì làm sao đi lên được!

Phật nói mất thân này rồi, tìm lại được rất khó. Chúng ta thử kiểm lại những người thân quanh mình, xem tình nhiều hay tưởng nhiều? Ít có người tưởng nhiều, trừ một vài người biết tu biết nhớ Phật, còn đa số là sống theo tình, ắt phải chìm sâu khó mà lên được. Bởi vậy, người biết tu rồi thấy thương chúng sanh mê muội không biết chỗ nào để thoát ra.

Con người sống một đời này mấy chục năm có nghĩa gì, mà trong đó lại tạo cái nhân chìm đắm khổ đau, đến mấy kiếp hoặc là mấy ngàn năm. Quả là đem một chút vui đổi lấy khổ muôn đời, giống như đứa con nít ham ăn, thấy có chút đường dính ở lưỡi dao bén, vội le lưỡi liếm. Liếm chút xíu đường, không ngọt được bao lâu mà họa đứt lưỡi đau không biết mấy ngày mấy tháng. Con người mê muội đến như vậy!

Người tu là người biết chọn hướng đi để thoát khổ, còn người không biết tu cứ vùi đầu trong khổ đau mà không tự biết. Đời này khổ một ít, rồi đời sau khổ nữa, không biết đâu là ngằn mé. Người đời trong lòng chứa toàn là tình. Nếu làm cha mẹ thì giận đứa con này thương đứa con kia, thằng đó nghèo quá, đứa kia ngỗ nghịch quá... Cứ kể lể bao nhiêu chuyện ấy, ít có ai nói chuyện niệm Phật, mộng thấy Phật Di-đà, hoặc mong sẽ sanh về cõi trời Đâu-suất, thấy Phật Di-lặc… 

Do vậy, người thế gian chết rồi mà được trở lại làm thân người là vô cùng khó, trong trăm ngàn người chưa biết có được một người trở lại không, nói gì là lên các cõi trên! Bởi vì họ sống theo một lối một hướng như nhau là cứ đuổi theo tình, suốt ngày có bao nhiêu đó. Chúng ta biết tu, hiểu đạo rồi mới thấy chỗ quý báu của sự tu, nhìn lại thấy chúng sanh mê muội đáng thương. Phật thương chúng sanh nên chỉ cho họ hướng đi. Do đó, thuyết pháp là việc thiết yếu, để nhắc cho mọi người nhớ đường đi lên.



MƯỜI THỨ TIÊN


Này A-nan, lại có chúng sanh từ loài người không y nơi chánh giác tu chánh định, riêng tu theo vọng niệm, giữ tư tưởng bảo vệ thân hình, dạo nơi rừng núi chỗ không có người đến, thành mười thứ tiên.

A-nan, những chúng sanh kia do kiên cố ăn thức bổ dưỡng không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu gọi là Địa hành tiên. Kiên cố dùng cỏ cây không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu gọi là Phi hành tiên. Kiên cố dùng vàng đá không dừng nghỉ, khi đạo biến hóa được thành tựu gọi là Du hành tiên.

Địa hành tiên vì còn ăn những thứ mà họ cho rằng sẽ làm cho thân họ sống lâu bền, nên còn đi dưới đất chưa bay lên được. Phi hành tiên chỉ dùng thuốc nên nhẹ hơn, bay được. Lại có các ông tiên luyện đá hóa thành vàng, hoặc chế luyện các thứ thuốc. Luyện theo cách biến hóa như vậy nên gọi là đạo hóa.

Kiên cố dùng cái động và dừng không dừng nghỉ, khi khí tinh thành tựu gọi là Không hành tiên.

Động là sự biến động, dừng là sự yên tịnh, những vị này lấy đó làm phương châm để luyện tập. Như khí công, các lối luyện tập hơi thở, hít vô tới đâu rồi dừng lại để cho nó đi ra chỗ nào... Dùng cái động và dừng mà luyện, chỉ chuyên về khí nên bay được trên không.

Kiên cố dùng nước miếng không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu gọi là Thiên hành tiên.

Những vị này ngồi thiền, co cái lưỡi trên ổ gà để đón nước miếng chảy xuống rồi nuốt, cho là nước cam lồ.

Kiên cố hấp thụ tinh sắc không dừng nghỉ, khi hấp thụ tinh hoa được thành tựu gọi là Thông hành tiên. Kiên cố luyện phù chú không dừng nghỉ, khi pháp thuật được thành tựu gọi là Đạo hành tiên. Kiên cố suy tư không dừng nghỉ, khi sự nghĩ nhớ được thành tựu gọi là Chiếu hành tiên. Kiên cố giao cấu không dừng nghỉ, khi cảm ứng được viên thành gọi là Tinh hành tiên. Kiên cố về biến hóa không dừng nghỉ, khi giác ngộ được viên thành gọi là Tuyệt hành tiên.

Trong thân người có tứ đại, nhưng nổi hơn hết là nước và lửa. Những vị này vận dụng lửa với nước gặp nhau để chuyển hóa gọi là giao cấu. Lửa đốt nước, nước thành hơi tức là khí, là lối "chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần".

Này A-nan, những vị này đều ở trong loài người mà luyện tâm, không tu chánh giác, riêng được lẽ sống, thọ ngàn muôn tuổi, ẩn trong núi sâu hoặc ở trên đảo giữa biển lớn, xa cách chỗ người ở. Đây cũng là vọng tưởng lưu chuyển luân hồi. Vì không tu chánh định, khi quả báo hết, trở lại phân tán vào trong các đường.

Những vị này do công phu luyện tập, tuổi thọ tuy dài nhưng rồi cũng phải chết, cũng luân hồi trong lục đạo chứ chưa ra khỏi. Như vậy công phu rất cực mà kết quả không phải là viên mãn. 


KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM GIẢNG GIẢI 

HT THANH TỪ




Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại bảo đại chúng : “ Nay đây, mọi người thấy chúng đại Bồ-Tát đó như thấy đức Phật Thích-Ca. Do thần lực của Phật sẽ được thấy vô-lượng chư Phật ở chín phương”.

 

Bấy giờ đại chúng đều thấy Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng quyến thuộc của ngài. Nơi mỗi lỗ chơn lông của Vô-Biên-Thân Bồ-Tát đều xuất sanh một hoa sen lớn, mỗi hoa sen đều có bảy muôn tám ngàn thành ấp rộng như thành Tỳ-Gia-Ly. Vách thành hào thành toàn bằng thất bảo, cây báu hàng liệt bông trái sum sê.

 

Gió nhẹ thổi động vang ra tiếng hòa nhã như tiếng nhạc trời. Nhơn dân trong những thành ấy nghe tiếng gió reo liền đặng hưởng thọ  nhiều sự vui vẻ. Nước trong hào thành trong sạch thơm tho như chơn luy-ly, trên mặt nước có thuyền thất bảo, chúng nhơn ngồi thuyên dạo chơi tắm gội rất mực vui sướng. Trong hào lại có vô lượng hoa sen đủ màu : xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn như bánh xe. Trên bờ hào lại có vườn rừng, trong mỗi vườn có năm ao suối đầy hoa sen bốn màu, hương thơm ngào ngạt. Nưóc ao sạch trong có các loài chim bơi lội. Trong vườn lại có nhiều lâu đài, mỗi tòa lâu đài rộng bốn do-tuần, vách cột mặt đất toàn bằng các chất báu, vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trong ấy có nhiều ao suối thất bảo, bực thang bằng vàng ròng, vàng Diêm-Phù-Đàn làm cây, không khác vườn Hoan-ỷ ở cung trời Đao-Lợi. Nơi mỗi thành ấp ấy có vô số dân chúng luôn luôn vui sướng. Dân chúng nầy chỉ nghe tiếng pháp vô- thượng đại-thừa, không nghe danh từ gì khác. Có vị quốc vương ngự trên tòa sư tử dùng pháp đại- thừa giáo hóa nhơn dân. Và nhơn dân biên chép đọc tụng, tu hành theo kinh điển đại-thừa. Nhờ thần lực của Bồ-Tát mà đại chúng được thấy các sự biến hóa ấy. Thân của Bồ-Tát cao lớn vô-lượng vô-biên đồng hư không, trừ Phật, không ai có thể thấy ngằn mé thân của ngài. Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng vô-lượng Bồ-Tát thị-hiện thần-thông như thế rồi, đem vô lượng cúng phẩm và thức ăn thơm ngon đến chỗ Phật, ai ngửi đến mùi thơm của thức ăn nầy thời phiền não đều tiêu diệt, đảnh lễ chơn Phật mà bạch rằng :” Ngửa mong đức Thế-Tôn thương xót nhận đồ cúng dường của chúng con”. Các Bồ-Tát ba phen dưng bạch, đức Phật biết chưa phải lúc nên không hứa nhận. Vô-Biên-Thân Bồ-Tát cùng chúng Bồ-Tát ngồi qua một bên.

 

Các cõi Phật ở Nam-phương, Tây-phương, Bắc-phương, cũng có vô lượng Vô-Biên-Thân Bồ- Tát và vô lượng đại Bồ-Tát ở mười phương đều đến rừng Ta-La. Bốn bộ chúng ở Diêm-Phù- Đề hội về đông đủ, trừ Ma-Ha-Ca-Diếp, A-Nan-đà, vua A-Xà-Thế và quyến thuộc của vua nầy. Thần Đà- Na-Bà, A-Tu-La nhẫn đến mười sáu loài ác độc, rắn, rít, bò cạp, bọ hung v.v… đều bỏ ác niệm mà sanh lòng nhân từ xem nhau như cha mẹ, chị em. Tất cả chúng sanh trong cõi Đại- thiên sanh lòng nhân từ đối với nhau cũng như thế, trừ hạng nhứt-xiển-đề.

 

Hôm ấy, cả đại thiên thế giới do thần lực của Phật, biến thành trang nghiêm đẹp sáng như cõi Cực lạc của Đức Vô-Lượng-Thọ Phật ở phương Tây. Đại-chúng trong pháp-hội Ta-La đều thấy rõ các thế giới của chư Phật ở mười phương, như thấy mình trong gương sáng.

 

Lúc ấy ánh sáng năm màu từ mặt Phật phóng ra bao trùm đại hội rồi thâu vào miệng Phật. Cả chúng-hội trời, người, a-tu-la v.v… thấy ánh sáng thâu vào miệng Phật, thời cả kinh mà nói rằng : “Đức Phật phóng ánh sáng rồi thâu vào nơi miệng, chắc có duyên cớ. Hay chính là tướng sắp nhập Niết-Bàn khổ thay !

 

Khổ thay ! Sao Đức Thế-Tôn lại rời bỏ bốn tâm vô-lượng, chẳng nhận sự cúng dường của Trời, của người. Mặt trời Thánh-huệ từ nay sắp tắt hẳn, thuyền pháp vô-thượng từ nay sắp chìm mất. Thế gian rất khổ. Than ôi ! Đau lòng lắm thay ! Than xong, đại chúng nhào lăn kêu khóc, nước mắt hòa máu rơi đầy nơi đất.



KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

PHẨM TỰ THỨ NHẤT

Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh




VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒ TÁT

Vị Thiện Tri Thức thứ 52

 

dạy THIỆN TÀI về TÍN-CĂN”

để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀNNHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.


KINH VĂN: 


Y lời dạy của Di-lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười (110) thành đến nước Phổ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa  thành suy tìm VĂN-THÙ SƯ-LỢI, trông được gặp gỡ kính thờ.

Bây giờ VĂN-THÙ SƯ-LỢI Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười (110)    do-tuần áp trên đầu (xoa đầu) THIỆN-TÀI  mà nói rằng:

Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời “TÍN-CĂN” thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được.

Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát tuyên nói pháp ấy cho THIỆN-TÀI được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu vô-số pháp-mônđầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh.

Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.

 

Niềm tin là bước đạo sơ nguyên,
Mà nỗi trần ai lắm sự duyên!
Thoạt tưởng sen lành say cõi Tịnh
Lại nghe mai đẹp mến non Thiền.


Bồ Đề gieo khéo nguyền viên-giác
Không hữu còn thương chấp nhị-biên
Tín-đức ví bền như hạnh nguyện
Mưa hoa đồng dạo cảnh Tây-thiên.

 

 
Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Thứ Ba Mươi Chín

Hóa Phật đảnh thượng pháp tối kỳ
Phổ cứu quần sinh xuất hãm ni
Công viên quả mãn siêu tam giới
Tức hoạch giác giả thọ thánh ký.

Bồ-Ðà Dạ [47]

                                             Án-- phạ nhựt-rị ni,
                         phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.

UM! A MẠT ĐÁT RỊ CHẤT ĐA.



39.  The Transformation Buddha  Atop the Crown Hand and Eye
        
Đảnh-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp 

Comments

Popular posts from this blog