Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
339. NA YẾT NA XA RA BÀ NOA
那揭那舍囉婆拏
Khỏa
hình ngoại đạo chúng thần long
La
Hán quyến thuộc Đại lực tôn
Độc
Giác Duyên Giác Bích Chi Phật
Tứ
quả Ứng Cúng Thanh Văn Tăng.
裸形外道眾神龍
羅漢眷屬大力尊
獨覺緣覺辟支佛
四果應供聲聞僧
Tụng câu chú nầy, thì NHIẾP PHỤC tất cả NGOẠI ĐẠO làm quyến thuộc của PHẬT THÍCH CA.
Địa Rị Sắt Ni Na [50]
BỒN-THÂN NGÀI BẢO-TRÀNG BỒ-TÁT
Hạng quải nhân đầu niệm linh văn
Thủ chấp thiết mâu nhật dạ tuần
Hoán tỉnh chúng sanh hành chư thiện
Khổ hải vô biên mạc trầm luân.
Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên
Pháp giới yêu khí tòng tư tức
Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn.
4. The Jeweled Sword Hand and Eye
Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp
LỘ TRÌNH TU
CHỨNG CỦA THANH VĂN
THỪA
Thanh Văn tu cái gì, và
tới cái gì? Niết Bàn là thế nào? Khi vào Niết Bàn các vị A La Hán đó có còn
thân hay không? Và dùng tâm gì để tu? Chỉ, quán là chỉ quán cái gì? Còn Bồ Tát
đạo thì các ngài tu ra sao và dùng cái gì để tu?
Bên Thanh Văn thừa,
dùng trực tâm. Trực tâm là tâm ngay thẳng, không lệch lạc, một
vị thanh văn giữ giới với một tâm không lệch lạc, chưa phải là Bồ Đề tâm. Còn
con đường Bồ Tát đạo là dùng Bồ Đề tâm tức là tâm Bát Nhã và Đại Bi bình đẳng,
là tâm chẳng có, chẳng không…
Chúng ta vốn là những
Phật tử, nhất là đã đọc Hoa Nghiêm rồi, cần phải hiểu rõ thế nào là mục tiêu
tuyệt vời của chư Phật. Đây, xin nói trước về lộ trình tu chứng của Thanh Văn
thừa.
Một bên, Thanh Văn thừa
dùng trực tâm, một tâm ngay thẳng, giữ giới, chưa biết được tâm Bồ Đề, Bát Nhã
và Đại Bi, các ngài có 250 giới cho tỳ kheo, 348 giới cho tỳ kheo ni. Một bên,
Bồ Tát thừa dùng tâm Bồ Đề, Đại Bát Nhã và Đại Bi, dùng tâm chẳng có, chẳng
không. Ngoài những giới gần giống như bên Thanh Văn thừa, Bồ Tát còn có những
giới khác như giới phải giữ Bồ Đề Tâm, giới phải tu đại thừa, giới nhiêu ích
hữu tình .v.v… Sự khác nhau chỉ ở chỗ một đằng là đến chỗ giải thoát, nhập Niết
Bàn cho riêng mình thôi (Thanh Văn), một đằng là đến chỗ nhập pháp giới trọn
vẹn (Bồ Tát). Bồ Tát nhiều khi không nghĩ đến mình nữa, nên có nhiều vị cố tình
để lại một ít kiết sử để thọ sinh lại trong các đường ác, và coi sự giải thoát
cho chính mình là thứ yếu, mà chỉ cầu tới chỗ nhập pháp giới, mà tới chỗ đó thì
tất cả mọi việc đều xong.
Quí vị sẽ thấy Niết Bàn
của Thanh Văn rất khác với đại tịch diệt Niết Bàn của Như Lai. Và khi vào đại tịch diệt, hành giả sẽ có đủ thần lực kéo
cả pháp giới đi đến chỗ cứu cánh.
Trở lại vấn đề giải
thoát bên Thanh Văn. Xin đặt câu hỏi: Một hành giả tu theo Thanh Văn thừa là như
thế nào? Giữ giới ra sao? Trong Thanh Văn thừa được chia ra hai phần: ngoại
phàm, và nội thánh. Lúc đầu, một hành giả mới vào tu, trước hết hành giả phải
tu ngũ đình tâm quán: đó là những môn để luyện tâm mình và đối trị những bệnh
của mình. Ngũ đình tâm quán có năm thứ:
1/ Quán tâm bất
tịnh: để cho nhàm chán
cái thân này ra khỏi dục giới. Nếu còn đắm luyến thân này, thì hành giả chưa
thể bước một bước — dù rất nhỏ — trên con đường Phật đạo. Phải
biết thân này là máu mủ đờm rãi, không có gì là đẹp cả. Vì do tập khí cũ nên
mắt không thể thấy gì khác ngoài cái da bao bọc ngoài thân.
2/ Quán nhân
duyên: Đó là một loại
quán cốt yếu của nhà Phật. Hành giả phải quán không có pháp nào là đơn thuần
cả, đều do vô lượng nhân duyên hội tụ lại mà thành. Khoa học ngày nay cũng thấy
rằng, trong các vi trần dù nhỏ đến đâu, như những hạt nhân, những trung hòa tử,
những âm điện tử, dương điện tử v.v…, nếu đi sâu hơn nữa vào những vật ấy, họ
lại có thể phân tách thành những vật khác. Họ lại tìm thấy những thứ gọi là
“phản vật,” phản dương điện tử, phản âm điện tử, v.v… rồi thì liên miên biên
hóa không ngừng. Nên khi tâm nhãn mình rọi soi đến đâu thì nó lại càng biến
hóa trùng trùng đến đó mà không thể tìm được một vật nào đơn thuần
hết. Vì vậy, kinh Phật mới dạy rằng: “Tất cả các pháp đều không có thực thể,
đều là do vô lượng nhân duyên hội tụ mà thành.” Quán nhân duyên là một lối quán
sơ bộ, nhưng rất quan yếu của tiểu thừa, đồng thời đó là một lối quán để nối
liền với lối quán như huyễn của đại thừa.
3/ Quán từ bi: Chúng ta quán nhân duyên, bất tịnh để đối trị với
tham dục của chúng ta, còn quán từ bi để đối trị sự sân hận. Khi một hành giả
thấy rằng mình sắp sửa nổi sân lên vì một người nào đó, thì hãy khởi quán tâm
từ, nghĩ rằng người đó cũng có nhiều điều đau khổ như mình vậy, và biết đâu họ
đã lõi bõi đi qua bao nhiêu kiếp chìm nổi để có được thân người như ngày nay.
Đại khái là như vậy.
4/ Quán giới
phân biệt: Giới là sáu căn,
sáu trần, sáu thức và tất cả giới đều do lục đại hòa hiệp mà thành, ở đây xin
mở một dấu ngoặc là theo Thanh Văn thừa thì có sáu đại, nhưng trong kinh Lăng
Nghiêm lại nói bảy đại: đất, nước, gió, lửa, hư không, thức, và kiến đại. Khi
một hành giả luôn luôn quán như vậy, thì tâm càng ngày càng sắc bén hơn lên,
thành cái gươm trí huệ, bất cứ pháp nào hành giả cũng có thể chia chẻ ra được.
Như trong kinh tả ngài Xá Lợi Phất, không có một điều gì mà ngài nghe qua mà
không hiểu. Nhìn thấy một người nào ngài cũng biết rằng người này vướng vào cái
gì, có cái gì lợi căn và cái gì hại căn v.v…
5/ Quán sổ tức: sổ tức để ngừng tâm lại không để cho nó buông lung
tán loạn, đó là một trong những pháp môn căn bản để bắt đầu.
Sau khi qua được giai
đoạn tu ngũ đình tâm quán, (nhưng nhiều khi các vị THANH Văn chỉ tu một phần
của ngũ đình tâm quán thôi mà cũng có thể bước qua phần khác được) thì các vị
bước qua phần thứ hai. Ở phần này, là một pháp môn tu nửa tiểu thừa, nửa đại
thừa để bắt đầu cho những vị khởi tâm muốn qua đại thừa. Phần này tu tứ niệm xứ
gồm có:
1/ Quản thân bất
tịnh, cũng là pháp môn như trên. Nhưng trong đạo Phật, thường phải tu
đi, tu lại một hạnh, hay một độ nào đó, vì nhiều khi, tu đến một mức nào đó lại
phải tu sâu hơn nữa, vì tâm thức đi theo con đường vòng xoáy trôn ốc. Chẳng
hạn như lúc đầu đã tu hạnh bố thí rồi, nhưng sau các vị lại trở lại tu bố thí,
hoặc có ngài như ngài Vô Yểm Túc dạy tu từ tâm, sau đó lại có ngài Đại Quang
cũng dạy tu từ tâm, nhưng ngài này dạy đi vào mức độ sâu hơn, (Trong kinh Hoa
Nghiêm, phẩm nhập pháp giới, lúc ngài Thiện Tài đi gặp các vị thiện tri thức).
Như chúng ta, đọc kinh một lần đầu đâu có thể hiểu ngay được, mà phải đọc đi,
đọc lại 50, 60 lần mới mong hiểu chút phần, vì thế cứ phải xoáy dần sâu vô mãi…
2/ Thọ thì khổ. ở
đây, hành giả ngồi quán chiếu mọi cảm giác của mình, thấy rằng bất cứ thọ cái
gì cũng là khổ cả. Nhiều cái thọ thấy lúc đầu rất vui, nhưng sau cùng đều đưa
đến cái thọ khổ. Thí dụ như ta mới được một cái xe mới, cảm giác lúc đó rất
vui, nhưng sau lại phải đương đầu với lắm sự phiền nhiễu, tiền trả xe hàng
tháng, tiền bảo trì, tiền bảo hiểm v.v… nghĩa là chuyện gì, lúc nào cũng chỉ
đem đến cho ta nhiều lo lắng, phiền não, mà sự vui lại rất ít. Một thí dụ khác
là ăn uống, lúc đương đói, ăn vào thì rất thích, nhưng sau đó, ăn no quá lại
thấy nặng bụng, phải tiêu hóa, hoặc đau bụng, đó là chưa kể về già lại nhiều
phiền não hơn nữa, có khi không đi cầu được chẳng hạn. Tóm lại, tất cả sự thọ
đều là khổ.
3/ Tâm vô
thường. Tâm đây không phải là diệu tâm đâu, mà là vọng tâm. Tâm tưởng
của chúng sinh, đều thay đổi từng giờ phút, giây, ngay cả từng sát na một. Hôm
nay có thể ta nghĩ thế này, mai lại nghĩ khác, hôm nay ta thích cái này, vài ba
ngày sau lại chán cái đó ngay. Vì vậy nên tâm vô thường, nên pháp vô định…
4/ Pháp vô ngã. Mọi
pháp đều không có cái gì là tự tánh của nó cả, nên gọi là pháp vô ngã.
Tóm lại, tất cả những
phần tu nói trên đều là sơ bộ, cốt để tập cho tâm mình thuần thục một chút.
Trong thời gian tu tập sơ bộ đó, đạo Phật lại chia làm bốn thứ bậc của ngoại
phàm, (là những người còn lơ mơ ở ngưỡng cửa). Những vị này, sẽ chứng được bốn bậc:
noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất.
— Noãn là hơi ấm, nếu một hành giả quán chiếu thân bất
tịnh, quán lâu thì thấy nó đúng, giống như một người dùi cây lâu ngày thì nó
bật lửa. Ở mức độ này, hành giả thấy một chút trí tuệ phát khởi nên gọi là
noãn.
— Đảnh là sau khi dùi cây lấy lửa lâu rồi sắp được kết
quả thì được đảnh. Đảnh tức là lên đến đảnh núi rồi, nhưng hành giả ấy vẫn chưa
với được những cụm mây trên cao, đồng thời chân còn dính vào đất mà chưa bay
bổng tuyệt vời được.
— Nhẫn đây là nhẫn của tiểu thừa thôi, chưa phải cái nhẫn
lớn của vô sanh pháp nhẫn của các vị đại bồ tát. Trong đạo Phật rất lạ lùng,
vẫn chỉ là một thứ thôi, nhưng sau lại chia ra đi vòng tròn xoáy trôn ốc lên. ở
tiểu thừa chỉ nói một thứ nhẫn, nhưng lên đại thừa thì có cả mười mấy thứ nhẫn.
Nhẫn của đại thừa đại khái như sau: Phục nhẫn, cho những vị
mới tu thập tín, thập trụ. Phục nhẫn là dùng chữ nhẫn của mình để dẹp bớt những
phiền não. Tín nhẫn là lòng tin sâu chắc khiến nhẫn chịu được
các pháp, cho dù có ai chửi cũng không thấy giận nữa. Tùy thuận nhẫn, là
thuận theo chân lý của đại thừa, và khi đã hiểu được chân lý đó thì có thể chịu
được nhiều thứ pháp, đói không thấy sợ lắm, bệnh cũng không thấy sợ lắm, ngay
cả đến sự chết cũng không thấy sợ. Vì sao, vì lúc đó hành giả đã hiểu rõ các
pháp, hiểu rằng mình bất tử, không có cách gì có thể chết được cả. Đó chỉ là
cái thân này chết thôi, còn luồng sức tâm không thể chết được.
Nhân đây, tôi cũng xin
nói qua về cái “bất tử” của nhà Phật. Tất cả các đạo khác nhằm đến một sự bất
tử rất hạn hẹp, giả dụ như tu tiên, muốn giữ hình hài này độ vài nghìn năm
nhưng đó vẫn chưa đến chỗ bất tử rốt ráo, vì rồi hết hạn cũng phải chết. Đạo
Phật cho rằng đó chỉ là sự bất tử hình tướng và thô kệch. Vì nếu đi sâu được
vào thức ấm và dùng thức ấm liên tục nhớ từ kiếp này sang kiếp khác, dùng sợi
dây ấy để làm “cái-gạch-nối-liền” đi qua các cõi, các kiếp để tạo nên cái bất
tử của mình, thì đó mới thực sự là bất tử, là biến hóa tràn đầy thế gian mà
không bao giờ có thể hết được. Khi đi sâu vào thức â’m thuần thục, hành giả chỉ
cần khởi một niệm cũng có thể hiện bời bời nhiều sắc thân và trụ nhiều kiếp.
Như một người được vãng
sinh Cực Lạc, có thể sống vô lượng kiếp nhưng không phải trụ ở thân máu mủ này
đâu, mà có một thân hào quang của thức ấm. Nói tóm lại, bất tử của đạo Phật sâu
xa vô cùng và vượt xa tất cả các đạo khác. Vì thế, ngày xưa có một vị sư tên
Đàm Loan đi gặp một ông tiên và được ông cho một ít sách để tu tiên. Giữa
đường, lại gặp một vị hòa thượng, được nghe hòa thượng đó tả nói về Tịnh Độ, ngài
Đàm Loan hiểu được sự vi diệu, nên ngài đã quẳng sách tu tiên để tu theo Tịnh
Độ và sau được vãng sanh.
Vô sanh pháp nhẫn là nhẫn của Bồ Tát đệ bát địa. Lúc này, bực Bồ Tát
đã có nhiều thần thông biến hóa lắm rồi, nên không có pháp nào mà không nhẫn
được.
Hư không nhẫn là chữ “nhẫn” của chư Phật, tức là đã hoàn toàn
nhập pháp giới trọn vẹn.
Trở lại chữ nhẫn ở tiểu
thừa, nó còn rất hạn hẹp, chỉ có thể chịu đựng được một số pháp thôi, như
chuyện tham dục, bệnh tật v.v… Vì sự hiểu biết nhân duyên: bất tịnh, khổ,
không, vô thường, vô ngã nên các vị đó có sự nhẫn chịu được một số pháp,
nên tâm được một chút thong dong, tự tại.
4/ Thế đệ nhất, ở
mức độ này, trong thế gian, hành giả phàm phu được phong làm đệ nhất của hàng
người.
Sau khi đi qua bốn bậc
đó gọi là tứ thiện căn, hoặc tứ gia hạnh, lúc này cá cvị tiểu thừa bước vào
quán tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo.
Quán tất cả pháp
là khổ. Chúng ta nên nhớ rằng không có gì là không khổ. Như
cái thân này chẳng hạn, phải bắt buộc qua bốn thời kỳ sanh, già, bệnh, chết.
Đồng thời phải hiểu rằng có một trạng thái tâm thức gọi là Niết Bàn, mà trạng
thái đó là trạng thái giải thoát, an lạc, tịch tĩnh… Nên các vị luôn luôn phải
quán mấy thứ đó, không lúc nào quên và phải nhớ rành rẽ từng thứ một. Nhìn đâu
cũng đều thấy là khổ, không, vô thường, vô ngã cả… duy Niết Bàn là an lạc, tịch
tĩnh. Từ tâm tưởng đến trí thông minh của mình thật ra không hề có tác giả,
không có thọ giả. Hiểu rằng tác giả, thọ giả đều là Ảo Vọng. Đồng thời, hiểu
rằng mình sẽ đến một giai đoạn gọi là giải thoát mà trong đó tâm thức an lạc,
tịnh tĩnh. Sau khi quán khổ như thế, lại quán tập, diệt, đạo.
Tập đế là tất cả nguyên nhân của sự khổ do tập khí cũ từ
vô lượng kiếp, nên cần phải diệt tập khí đó đi để tu hành đến đạo quả, tức là
Niết Bàn tịnh tĩnh. Trong kinh còn nói nhiều thứ phức tạp hơn, nhưng tôi chỉ
tóm tắt cho quí vị biết được cái sườn tu của các vị Thanh Văn.
Ở đây, hành giả đã
bắt đầu vào nội thánh rồi, có thể được bốn quả tiểu thánh, đồng thời cũng có
thể được bốn thiền, bốn vô sắc định và diệt tận định.
Thế nào là quả thánh và
thế nào là quả thiền? Có nhiều trường hợp hành giả tu được bốn quả thiền nhưng
chưa được một quả thánh nào cả. Như đắc sơ thiền nhưng chưa chắc đã đắc được
quả thánh Tu Đà Hoàn, (Xin nhắc sơ bốn quả tiểu thánh là Tu Đà Hoàn, Tư Đà
Hoàn, A Na Hàm và A La Hán). Khi bắt đầu có những quả thánh đó thì trong nhà
Phật gọi là kiến đạo, sau đến chỗ tu đạo và sau cùng là vô học đạo. Còn tứ
thiền là: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền, rồi tứ vô sắc định là
không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Cuối cùng là diệt tận định. Tóm lược là cửu thứ đệ định.
Bốn quả thánh và cửu thứ
đệ định đều do tu thiền mà được. Nhưng có những vị đắc được tứ thiền như ngài
Thiện Tinh Tỳ Kheo, có thể ngưng tim đập, bặt hơi thở, phóng quang, vào được xả
niệm thanh tịnh địa (đệ tứ thiền), nhưng ngài không đắc một quả thánh nào cả,
ngay cả quả thánh thấp nhất là Tu Đà Hoàn. Nên khi lâm chung, thấy chẳng vào
được Niết bàn, vẫn thấy có thân trung ấm, nên ngài kinh ngạc kêu lên rằng: “Chư
Phật đều nói lời hư vọng, chả có Niết Bàn gì cả.” Vì thế mà ngài bị đọa địa
ngục.
Thiền là mức định lực
nông sâu của mình, quả thánh là do diệt được những phiền não hữu lậu. Một vị
hành giả tu thiền khá có thể ly dục và vào được sơ thiền, nhưng sân, si, nghi,
mạn v.v… vẫn còn nhiều, chưa diệt được mấy đỗi, vì vậy mà chưa đắc quả thánh.
Muốn đắc quả thánh thấp nhất phải diệt được một số kiến hoặc và tư hoặc. Tất cả
bốn quả thánh bên Thanh Văn thừa đều căn cứ vào vấn đề diệt phiền não nhiều hay
ít, còn thiền chỉ thuần do định lực mà có. Trong kinh thường nói có những kiến
hoặc và tư hoặc mà các vị tu muốn đắc quả phải diệt.
Kiến hoặc là cái nhìn
lệch lạc, tỷ dụ như thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến, chấp thủ kiến, và
tà kiến.
Thân kiến là chấp có
thân này do đó chấp có ngã, (cái ta). Biên kiến là nghĩ rằng các pháp có một
biên giới rõ rệt như tự và tha, như một là có, hai là không, một là đoạn, hai
là thường, một là có mình, hai là có người v.v… Không bao giờ hiểu rằng các
pháp là chẳng có, chẳng không cả, là không quyết định, là tùy tâm người nhìn.
Giới cấm thủ kiến là
những ngoại đạo thường hay lạc vào những giới cấm tà kiến. Chẳng hạn như nghĩ
rằng, cứ tu bằng cách đứng co một chân như con cò rồi sau khi chết sẽ sanh
thiên. Hoặc có vị nghĩ rằng phải hành hạ thân xác mình thật khổ sở, như nằm
trên giường đinh, sống bẩn thỉu như một con chó — gọi là cẩu giới — hoặc
kê giới, v.v… ăn thì không cầm tay, chỉ dục miệng vào bát để ăn, không đi đứng
chỉ bò như chó, khi ngủ thì tìm mấy cái xó bẩn thỉu để ngủ v.v… Họ nghĩ rằng
đày đọa thân này thì sau sẽ được sinh thiên. Phật Giáo gọi đó là giới cấm thủ
kiến, tức là giữ một giới cấm rất lệch lạc, không thể đưa con người đến một sự
giải thoát nào cả. Mà bên xứ Ấn, có rất nhiều trường hợp như vậy, nên chư Phật
mới phải từ bi thị hiện ở bên đó.
Chấp thủ kiến là như
ngài Thiện Tinh Tỳ Kheo, tu đến đệ tứ thiền rồi chấp là mình có sở đắc vào được
Niết Bàn.
Chứ không hiểu rằng
phiền não chưa diệt.
Tà kiến là tất cả sự nhìn
lệch lạc của mình. Tỷ dụ như bên Ấn có một phái tuyên bố rằng chẳng có nhân quả
nghiệp báo gì cả. Nên ai muốn làm gì thì làm v.v…
Hỏi: Xin ông nói rõ thêm
sự khác biệt giữa biên kiến và tà kiến là thế nào?
Đáp: Biên kiến là chấp có, không, đoạn, thường, khứ,
lai v.v… Nói cách khác, biên kiến là những thành kiến chấp có hai bên, chấp có
cái này cái kia, chấp có ta, có người. Luôn luôn phải có đối tượng và chủ thể.
Còn tà kiến là một cái chấp lệch lạc, như không có nhân quả nghiệp báo, v.v…
Còn tư hoặc là những vọng tình ẩn sâu vào trong tâm thức, nó kết tụ bao nhiêu
đời trước do những sự ái luyến suy tư, nó bền bỉ đan nhau từ kiếp này qua kiếp
khác, chẳng hạn như tham dục, sân khuể, ngu si, nghi, mạn v.v… Đó cũng gọi là
các mầm mống sinh tử nữa.
Trở về vấn đề thiền bên
Thanh Văn thừa, những vị này trong khi tu tứ đế, diệt được phần nào kiến hoặc
và tư hoặc, ít hay nhiều thì đạt được từ thấp lên cao bốn quả thánh. Đồng thời
có thể đi vào thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền, đến vô sắc định, diệt tận
định, rồi vào đến không hải của thức ấm. Rồi vào Đại Thừa, hoặc dừng chân.
Nói về các quả, quả đầu
tiên là Tu Đà Hoàn. Đắc quả này, người tu chỉ trở lại cõi dục bảy lần nữa, phải
bảy lần làm người hoặc làm chư thiên, nếu tiếp tục tu thì mới đắc được quả A La
Hán, rồi vào Niết Bàn tịch diệt. Còn Tu Đà Hàm (Nhất Lai), là chỉ trở lại cõi
dục một lần thôi. A Na Hàm là những vị không trở lại dục giới nữa, các vị này
khi chết đi không thọ sinh làm chư thiên cõi dục, hoặc làm người, chỉ trừ khi
có nguyện độ sanh. Thường thường những vị này thọ sanh ở tầng trời sắc
giới, ở tầng trời này, không có tham dục và không có nam nữ. A
La Hán là ra khỏi tam giới rồi, tức là dục giới sắc giới và vô sắc giới.
Muốn hiểu rõ hơn con
đường tu thiền bên Thanh Văn thừa, tôi xin trở lại Lăng Nghiêm để ôn qua năm
màn sương mù của năm ấm. Ta nên lưu ý rằng: khi tu theo Thanh Văn thừa vượt qua
từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền đến tứ thiền lúc đó hành giả mới vào được đến
thọ ấm và tưởng ấm mà thôi. Vì sao? Vì sơ thiền là ly sanh hỷ lạc địa, nhị
thiền là định sinh hỷ lạc địa, tam thiền là ly hỷ diệu lạc địa. Mấy định này,
chỉ cho sự vui sướng mà sự vui sướng ấy thuộc về cảm thọ. Như trong kinh vẫn
nói rằng khi một vị Bồ Tát gieo mình vào miệng hổ đói, vị Bồ Tát đó thấy mình
sung sướng như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền vậy. Hoặc ngài Đề Bà Đạt Đa
ngồi dưới địa ngục vui như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền. Do đó, từ sơ thiền
đến tam thiền thuộc về thọ ấm. Lên đến tứ thiền là xả niệm thanh tịnh địa, tức
là vào được đến tưởng ấm, tứ vô sắc định là vào được đến hành ấm, đến diệt tận
định là bắt đầu bước vào không hải, tức là vào thức ấm.
Do vậy, ta nên hiểu rằng
trong kinh Hoa Nghiêm không thấy nói ngài Thiện Tài tu gì từ sắc ấm qua thọ ấm
đến tưởng ấm cả. Vì ngài bắt đầu đã tu ngay trong thức ấm đó. Do đó, ta phải
hiểu rằng, ngài đã thành tựu Không quán rồi. Chỉ còn học Giả quán và Trung quán
thôi.
Đó là kim chỉ nam cho
chúng ta hiểu đường đi của thiền định như thế nào. Vì vậy, ta thấy trong phẩm
Nhập Pháp Giới, lúc Thiện Tài gặp vị thiện tri thức đầu tiên thì vị này lập tức
dạy tu niệm Phật tam muội, tức là quán cái giả để đi sâu vào tột không nên phải
quán đức Phật. Vì trong biển không đó hiện ra đức Phật. Đến vị
thiện tri thức thứ hai thì dạy Thiện Tài quán biển tâm, mà trong biển đó mọc
lên một hoa sen tức là pháp giới này vậy. Ở vị thiện tri thức thứ hai này,
cũng vẫn dạy Thiện Tài quán giả, vị thứ ba là ngài Thiện Trụ Tỳ Kheo, dạy Thiện
tài quán tâm khéo giữ giữa sắc và không, không có cũng không không, đó gọi là
quán trung. Nên ta thấy rõ trình tự tu của Thiện Tài không hề đi qua sắc ấm,
thọ ấm, tưởng ấm, hay hành ấm là vì trong kinh nói rõ: thân, ngữ, ý
không có lỗi, tâm thanh tịnh như hư không. Có nghĩa rằng Thiện tài đã
vào đến thức ấm rồi vậy.
Trở lại con đường tu của
các vị Thanh Văn, sau khi các ngài vào được thức ấm rồi, thì đã được giải thoát
chưa? Các ngài còn thân hay không thân?
Giải thoát có hai hình
tướng, nếu các vị đó vẫn dùng sắc thân này đi vào thức ấm mà chưa mãn báo thân
thì gọi là hữu dư Niết Bàn. Đến khi vị đó bỏ báo thân này, tự
đốt thân mình thì luồng thần thức của các ngài đi vào chỗ gọi là vô dư
Niết Bàn. Trong kinh tiểu thừa đức Phật thường dạy như vậy, các vị đó
vào Niết Bàn như”củi hết lửa tắt,” ngài nói một cách rất mơ hồ, nhưng chúng ta
cũng phải hiểu rằng, khi một vị A La Hán đã diệt hết phiền não rồi và dùng hỏa
tam muội tự đốt thân mình thì thần thức của các ngài vào một nơi nào đó chưa
cần phải nói đến, nhưng liệu các ngài có còn thân hay không, và Niết Bàn là thế
nào?
Niết là không, Bàn là
dệt. Không dệt sinh tử, vấn đề là ta phải hiểu từng tầng lớp quang minh, từ thô
kệch gọi là sắc thân đến vi tế gọi là thức ấm. Khi các ngài diệt được hết phiền
não thô kệch rồi, thì thân của các ngài được dệt bằng một quang minh vi diệu
hơn, quang minh của thức ấm. Vì vậy trong kinh thường nói đến những khu vực mờ
ảo mà ta chỉ có thể đoán thôi, trừ những vị tu chứng lên đến mức độ đó mới hiểu
được dễ dàng. Trở lại vấn đề còn thân hay không thân của những vị A La Hán, nói
rằng các ngài không còn thân là không còn cái thân phân đoạn sinh tử như chúng
ta thôi, vì những mầm mống phiền não đã diệt rồi. Phiền não là những chủng tử
mầm mống sinh tử “phụt lên” tạo nên một hình tướng thô kệch là cái thân phân
đoạn sinh tử này. Đó là thân máu mủ bầy nhầy hoặc thai sinh, hoặc noãn sinh.
Nhưng sau khi bỏ được thân phân đoạn sinh tử thì các ngài vẫn còn thân, gọi
là thân biến dịch sinh tử, dệt bằng một thứ quang minh vi tế của thức ấm. Vì
vậy, tất cả đại thừa là tu trong thức ấm để chuyển thành Bạch tịnh thức, trong
khi tiểu thừa chỉ đến mấp mé, bắt đầu bước vào thức ấm thì dừng lại và cho rằng
đã nhập Niết Bàn rồi. Tóm lại, Niết Bàn có thể nói đó là biển
quang minh vi diệu của thức ấm, nên trong kinh có kể, các vị A La Hán độn căn
ngồi trong đó, lâu dần, chư Phật lại phải khởi đại bi tâm, nhón tay đưa các
ngài sang Cực Lạc, cho ngồi trong hoa sen nơi biên địa để tắm được quang minh
của chư Phật vài ba kiếp mới có thể khởi được tâm đại bi, phát được lòng mong
cầu nhất thiết trí, muốn tiến tu đến tuệ giác Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tóm lại, tất cả con
đường tu của Thanh Văn thừa chỉ tiêu diệt được phiền não chướng mà thôi, tức
tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, chứ chưa hề tiêu diệt được sở tri chướng. Còn
bước sang Đại Thừa thì phải đi nốt con đường còn lại, tiêu diệt nốt phần sở tri
chướng và những biến dịch sinh tử, chẳng hạn như những vọng tưởng về ta, về
pháp giới, về tác giả, ngã giả, tri giả, kiến giả, thọ giả v.v… Tất cả đó là
con đường của Đại Thừa, phải đi sáưvào biển diệu tâm ấy, phải diệt luôn ý tưởng
có người chiếu soi cùng cảnh bị chiếu soi, phải nhập với pháp giới làm một,
viên mãn, tròn đầy…
Tóm lại, chúng ta nên
nhớ, phiền não chướng là vọng tình, lên đến tột cao thì vọng tình
chuyển thành Đại Bi. Sở tri chướng là vọng tưởng, lên đến tột cao
thì vọng tưởng chuyển thành Bát Nhã (trí sáng suốt). Nên trong
kinh Lăng Nghiêm có dạy, nếu có bảy phần tình, ba phần tưởng thì đọa địa ngục,
tưởng nhiều tình ít thì bay bổng lên cao…
LỘ TRÌNH TU CHỨNG CỦA BỒ
TÁT ĐẠO
Thông thường, các vị Bồ
Tát mới tu cũng chập choạng vì nhiều khi chưa rõ được đường lối. Các vị cũng tu
theo ngũ đình tâm quán, tứ niệm xứ, tứ đế, thập nhị nhân duyên v.v… Đến một
ngày kia, đọc kinh hiểu và càng ngày càng thầm kinh thì bắt đầu bước vào thập
tín. Cũng nên mở dấu ngoặc để giảng thêm chữ tín. Các vị này
có tín tâm rất sâu chắc và một ít huệ tâm. Về định lực và giới lực thì thua xa
một vị A La Hán, nhưng riêng về cái tín tâm, thì lại hơn ghê gớm lắm rồi, tin
sâu chắc đến độ nở ra thành một căn gọi là tín căn. Vậy thì, các vị tin cái gì?
Bên Thanh Văn, các ngài tin có Phật, có pháp, có giải thoát, có con đường tứ
đế, từ khổ đế đến tập đế, đến diệt đế rồi đến đạo đế. Nhưng các ngài vẫn chưa
hiểu rõ về pháp giới, mà đôi khi cũng không hiểu rốt ráo Phật là gì? Thường các
ngài chỉ biết đến đức Phật Thích Ca thôi, mà chưa chắc đã biết đến đức Phật A
Di Đà. Vì vậy các ngài mới chê là không có đức Quán Thế Âm, các ngài chưa hiểu
cái lẽ một với nhiều, các ngài tu bằng cái tâm giữ giới và
ngay thẳng, cốt tránh ác mà chưa biết những giới tích cực, chưa biết những giới
nhiêu ích hữu tình giới v.v… Ngoài ra, các ngài rất nhàm chán cái thân máu thịt
này, e sợ sanh tử, và đôi khi quay đầu lại nhìn pháp giới bời bời, thấy chúng
sanh vô lượng thì tâm rất e ngại, nên không dám khởi đại bi tâm, không tin mình
có thể độ hết được tất cả chúng sanh. Đó là một lòng tin còn hạn hẹp. Nhưng
trái lại, các vị Bồ Tát ỏ bậc thập tín, tức là những vị mới bắt đầu bước chân
vào con đường Bồ Tát đạo, tuy rằng không có định lực, nhưng các ngài có được
một lòng tin rất ghê gớm, hơn hẳn các vị Thanh Văn. Vì các ngài hiểu rằng, tất
cả pháp giới này chỉ là huyễn mộng, đều do duy tâm sở hiện, thứ nữa, các vị
cũng tin rằng chính mình cũng là huyễn, đồng thời các ngài tin rằng chính Phật biến
ra pháp giới này, và thân Phật nhập pháp giới hoàn toàn, đồng thời cả
pháp giới này cũng đều là huyễn mộng mà thôi. Mục đích cuối cùng của
các vị Bồ Tát là để nhập pháp giới chứ không phải chỉ để giải
thoát nhập Niết Bàn cho riêng mình, chữ tín của Bồ Tát lớn lao như thế, nên
ngài Hiền Thủ đã nói rằng:” …dù có một người đứng giữa không gian trọn mười
kiếp hai tay bưng một quốc độ, không bằng công đức của người tin pháp này…” (tức
là tin được lý như huyễn và duy tâm sở hiện). Nên những vị Bồ Tát ở thập tín
này, tuy chưa cứu độ được mấy, nhưng đã dõng mãnh phát Bồ Đề Tâm, biết rằng tâm
đó, một mặt là Bát Nhã, một mặt là Đại Bi, và chính cái tâm đó phát hiện ra
pháp giới này, phải tu theo cái “huyễn tâm” đó để nhập pháp
giới trọn vẹn, trong khi các vị vẫn tu thiền quán, cũng quán nhân duyên, quán
từ bi, nhưng những thứ đó là sơ khởi để sau này bắc cầu lên đến quán như huyễn
mà thôi. Từ thập tín, các ngài bước qua thập trụ để trưởng dưỡng về lý, và giữ
được Bồ Đề Tâm không bị lung lay thối thát. Trụ là trụ Bồ Đề Tâm lại để trưởng
dưỡng. Một vị Bồ Tát phải có một tín căn sâu chắc không có gì lay chuyển được,
dù gặp tất cả các nạn nước, lửa, đói, khát cũng vẫn tin chắc về con đường tu
của mình. Đó mới gọi là trụ được Bồ Đề Tâm. Qua đến Thập hạnh là các ngài đi vào
sự, tức là mang cái Bồ Đề Tâm đó vào pháp giới, đi vào cuộc đời, đi vào tất cả
cảnh giới. Rồi sang đến Thập hồi hướng là để xóa hết những vết tích giữa tự và
tha, không có sự phân chia nữa, coi pháp giới này chính là mình và luôn luôn
lúc nào cũng hồi hướng cho tất cả, và hiểu rõ rằng càng hồi hướng rộng lớn bao
nhiêu thì cái ngã và phi ngã lại càng bị xóa bấy nhiêu. Mười hạnh là tu mười
độ: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, nguyện, phương
tiện, lực và trí. Tu đến thập hạnh thì các vị chưa đến được bốn độ sau cùng.
Tu đạo Phật vẫn là một
lịch trình vòng tròn xoáy trôn ốc, vì tới chỗ Đăng địa, tức là
vào Thập địa thì lại tu mười hạnh ấy, nhưng lên càng cao sự tu chứng càng sâu
hơn. ở đây, tôi xin nhắc lại về vấn đề luận lý và biện chứng. Đạo học của Đông
phương, nhất là đạo Phật, đó là một sự vận hành Tâm thức theo biện chứng chứ
không phải theo luận lý, vì nhiều khi nó phi luận lý. Còn bên Tây phương chỉ
biết có luận lý thôi, luận lý tức là đi theo cái ý thức thứ sáu hay phân biệt,
còn biện chứng là vừa dùng thức thứ sáu liễu tri lại vừa dùng vô phân biệt trí.
Vì vậy, luận lý của Tây phương là một luận lý nhị biên, chỉ có thể một là có,
hai là không, một là trắng, hai là đen, một là thường, hai là đoạn v.v… mà
không bao giờ biết cái phi có phi không, chỉ có biết đệ nhất cú (có) và đệ nhị
cú (không) là cùng, mà không bao giờ biết đến đệ tam cú (cũng có cũng không) và
đệ tứ cú (chẳng có chẳng không) cả. Còn bên Đông phương thì không đi đường
thẳng như vậy mà đi vòng trôn ốc, đôi khi thấy nó rất tương khắc nhưng kỳ thực
nó đều là tương sinh, tương duyên lẫn nhau, và bao giờ cũng đều có hai mặt, một
mặt là luồng sóng ba động, một mặt là hạt tử. Mà phải hai mặt đi đôi với nhau
mà không bỏ cái nào cả. Đó là biện chứng nhất như, là dùng cả
hai lối phân biệt trí và vô phân biệt trí. Nên lên đến chỗ Đăng địa, thì tu lại
mười hạnh trên. Sau này, ta sẽ lấy Thiện Tài đều đi trở lại những điều này,
nhưng càng ngày càng đi sâu vào tột không cũng
tức là đi sâu vào diệu hữu. Rồi sẽ lên đến Đẳng Giác, đẳng
giác là tất cả pháp giới bình đẳng. Rồi lên Diệu Giác, là trạng thái như như
tịnh tĩnh mà vẫn chiếu soi vằng vặc, giữ được tâm ở mức này là đến chỗ tuyệt
vời, việc làm gần như đã xong. Vì ở bình diện này, tâm thức chuyển biến song
chiếu giữa Bát Nhã và Từ Bi rất mau lẹ, như con thoi đi qua, đi lại,
không ngừng ở bờ bên này, cũng không dừng ở bờ bên kia, cũng không ngừng ở giữa
giòng, đó là việc làm của một bậc Đại Bồ Tát và chư Phật.
Tóm lại, Bồ Tát Đạo là
ngoài việc diệt phiền não chướng, tức là vọng tình, đồng thời còn phải diệt
thêm phần sở tri chướng là vọng tưởng vi tế. Như trong kinh, khi Thiện Tài đến
dần những vị thầy cuối cùng, các vị này đều dạy Thiện Tài quán chiếu như huyễn
cả…
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Ngày 4 tháng 2 năm 1990
Pháp Giới Tổng Luận
Tiết mục:
1. Luận về bốn pháp-giới
II. Luận về y chánh
III. Luận về đồng-biệt-dị-kiến
IV. Luận về cộng-bất-cộng-biến
Kinh sách tham khảo: Kinh Hoa-Nghiêm, Thập-Lục-Quán-Kinh-Sớ, Kinh Pháp-Hoa,
Kinh Duy-Ma-Cật, Kinh Anh-Lạc-Bản-Nghiệp, Kinh Nhân-Vương, Thành-Duy-Thức-Luận,
Kinh A-Hàm, Tông-Cảnh-Lục.
Đề yếu: Thật ra, khi nói: Luận về pháp-giới, trong ấy tất phải
có nhiều vấn đề. Nhưng ở đây, bút giả đã gom góp những điểm chính yếu chia
thành bốn tiết để trình bày, nên xin tạm gọi là tổng luận.
Hai tiết đầu thuyết minh chung về tánh tướng của
pháp-giới. Tánh tướng nầy nếu tế phân thì vô cùng, nhưng gom lại không ngoài
bốn pháp-giới và hai phần y chánh. Hai tiết sau tuy không minh luận duyên khởi
của pháp-giới, song kỳ thật trong ấy đã ẩn thuyết về lý nầy. Như tiết
đồng-biệt-dị-kiến tuy nói về tương-vi-thức-tướng của hữu-tình, nhưng nội dung
đã ẩn lý nghiệp-cảm-duyên-khởi. Và đoạn cộng-bất-cộng-biến thì ẩn lý
A-lại-da-duyên-khởi.
Xem qua bản chương, đọc giả nên chú ý: thuyết Duy-tâm
của Phật-giáo không phải cực đoan như Duy-tâm hay Duy-vật của các môn triết học
khác. Theo quan niệm Phật-giáo, tâm tức vật, vật tức tâm, tâm vật chỉ là bản
thể duy nhất, mà Tánh tông gọi đó là Duy-tâm và Tướng tông lại gọi đó là
Duy-thức.
Pháp-giới Duy-tâm hay Duy-thức chính là lý nầy.
Tiết I: Luận Về Bốn Pháp Giới
Nếu so sánh phạm vi lớn nhỏ, thì một Tiểu-thế-giới không
bằng một Tiểu-thiên-thế-giới, một Tiểu-thiên-thế-giới không bằng một
Trung-thiên-thế-giới, một Trung-thiên-thế-giới không bằng một
Đại-thiên-thế-giới. Đại-thiên-thế-giới tức là một Phật-độ; nhưng chư Phật có vị
lấy một cõi Đại-thiên làm một Phật-độ. Đem một Phật-độ so sánh với một
thế-giới-chủng thì thật cách biệt vô cùng! Một thế-giới-chủng gồm hai mươi tầng
từ thấp đến cao, mỗi tầng có từ một Phật-sát vi-trần Phật-độ, cho đến hai mươi
Phật-sát vi-trần Phật-độ. Thế-giới-chủng sánh với thế-giới-hải lại còn kém xa.
Như riêng về thế-giới-hải Liên-Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm, có đến mười
bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần thế-giới-chủng.
Bàn đến thế-giới-hải, thì thật là cảnh giới tuyệt rộng
rãi mênh mang, không lường không ngằn, tợ hồ thế-giới đến đây là cùng cực.
Nhưng mà chưa bao quát, thế-giới-hải còn có Pháp-giới-an-lập-hải. Theo kinh,
một An-lập-hải đại khái gồm có những thế-giới-hải nhiều bằng số bụi nhỏ của tám
bất-khả-thuyết cõi Phật. Như trong kinh Hoa-Nghiêm, bậc đại thiện tri thức hiện
thân làm Chủ-dạ-thần, tên là Tịch-Tịnh-Âm-Hải nói: “Khi Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na
Như-Lai ở nơi đạo tràng nầy thành quả chánh-giác, mỗi niệm thị hiện sức đại
thần thông; bấy giờ tôi được thân cận, liền chứng vào môn
Tam-Muội-Niệm-Niệm-Xuất-Sanh-Quảng-Đại-Hỷ-Trang-Nghiêm-Giải-Thoát. Lúc chứng
được môn giải thoát nầy rồi, tôi có thể hiện thân vào những
Pháp-giới-an-lập-hải nhiều bằng số bụi nhỏ của mười bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết cõi Phật. Trong vô lượng vô biên Phật-sát vi-trần số cõi Phật
của tất cả An-lập-hải, tôi thấy mỗi mỗi Phật-độ đều có Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai
trong mỗi niệm thành chánh-giác và hiện các phép thần biến. Và cũng lại thấy
mình ở nơi chỗ các Ðức Như-Lai ấy thừa sự cúng dường, nghe nói diệu pháp”.
(Lược thuật)
Theo đoạn kinh trên, ta thấy cảnh giới của chư Phật rộng
rãi vô biên, nếu không vào môn đại-giải-thoát, không chứng được đại-tam-muội,
thì không thể nào thấy hiểu nổi. Đạt đến cảnh nầy thì quên tình tuyệt lự, tâm
địa rỗng rang không còn sự suy nghĩ nữa. Nhìn lại chúng ta, chút thân trần mạt,
một điểm thức linh, sánh với pháp hải bao la, còn nhỏ hơn hạt cát nơi bãi sa
mạc, bóng bọt giữa trùng dương, hoảng hốt như huyễn như hóa, dường mộng dường
mê, thật không đáng chi cả!
Trên đây, sở dĩ gọi Pháp-giới-an-lập-hải, bởi pháp-giới
là danh mục của chân tâm; thể dụng chân tâm rất sâu rộng, tánh và tướng vô
ngại, lấy tâm làm pháp, lấy tâm làm giới, nên xưng là “Pháp-giới”. Trong
pháp-giới có những diệu tướng sai biệt trang nghiêm, tập hợp thành từng khu vực
riêng không lẫn lộn nhau, nên gọi là “An-lập”. Mỗi cõi An-lập bao trùm vô lượng
vô biên Phật-sát, thế-giới-chủng, thế-giới-hải; vì nó có tánh cách rộng rãi
mênh mang như biển cả bao hàm muôn tượng, nên gọi là “Hải”. Sánh với
An-lập-hải, thế-giới-hải tuy cũng gọi là biển thế-giới, nhưng chỉ là vùng biển
nhỏ, thua kém hẳn trùng dương rộng rãi bao la. Chân tâm đã có vô biên
An-lập-hải, nên tánh và tướng giao nhiếp, sự cùng lý viên dung, gọi là
Nhất-chơn-pháp-giới. Từ Nhất-chơn-pháp-giới phân xuất ra bốn pháp-giới như sau:
1. Lý-pháp-giới: Đây là chỉ cho phần chân-như-môn của
Như-Lai-tạng. Thể chân-như nầy linh hư vắng lặng, sáng suốt một mầu, đủ bốn đức
thường, lạc, ngã, tịnh.
2. Sự-pháp-giới: Đây là phần sanh-diệt-môn của
Như-Lai-tạng, gồm vô lượng sự tướng sai biệt. Sự tướng nầy sanh diệt thay đổi,
như sóng bọt nổi tan ngoài biển cả, ráng mây biến huyễn nơi trời cao, tùy hạnh
nghiệp thiện ác mà hóa hiện.
3. Lý-sự-vô-ngại-pháp-giới: Vì muôn pháp như huyễn,
không có tự tánh và thật thể, nên toàn sự là lý. Bởi chân-như cũng không tự
tánh và thật thể tùy duyên mà biến hiện, nên toàn lý và sự. Lý và sự đây ví như
nước với sóng, ngõa-khí cùng vi-trần; sóng tan thành nước, nước nổi thành sóng,
vi-trần kết hợp thành ngõa-khí, ngõa-khí tiêu hoại thành vi-trần, không thể
phân biệt ngoài sóng có nước, ngoài ngõa-khí có vi-trần. Cho nên chân không
chẳng ngoài diệu hữu, chân lý không ngoài huyễn sự, vì lý tức sự, sắc tức
không, nên gọi là vô ngại.
4. Sự-sự-vô-ngại-pháp-giới: Lý đã tức là sự, nên lý
không ngại sự, sự không ngại lý, lý không ngại lý, sự không ngại sự, mỗi trần
không ngại, mỗi pháp dung thông. Vì lẽ sự-sự-vô-ngại, nên bậc Bồ-Tát chứng vào
cảnh giới Bất-tư-nghì-giải-thoát, có thể xem tường vách núi non hư không, lại
qua tự tại; có thể kéo dài sát-na thành muôn kiếp, thâu gọn muôn kiếp trong
sát-na; lại có thể để núi Tu-Di vào hạt cải, dùng hạt cải bao chứa núi Tu-Di,
mà cảnh giới và loài hữu-tình trong ấy không bị tăng tổn.
Về ý chí “pháp-giới” trên đây, thì “pháp” lấy quỹ-tắc
làm nghĩa, “giới” lấy tánh-phần làm nghĩa. Quỹ-tắc và tánh-phần nầy, ở nơi lý
là Lý-pháp-giới ở nơi sự là Sự-pháp-giới; cho đến lý-sự và sự-sự cũng như vậy.
Bởi lý không chừng hạn, sự có muôn sai, nên cổ-đức đã bảo:
“Hòa ấm hơi xuân đồng một tiết.
Thấp cao hoa cỏ khác muôn màu”.
Tóm lại, trong tánh tạng, thế-giới trùng trùng, tịch
quang lặng lặng, không và sắc bao la, nhưng phải ngoài lý cùng sự. Lý, sự nầy
diễn ra thành bốn pháp-giới, thâu lại về cõi Nhất-chơn.
Tiết II: Luận Về Y Chánh
Khắp mười phương thế-giới đã vô lượng vô biên, mà loài
hàm-linh cũng vô cùng vô tận. Nhưng tóm lại, tất cả không ngoài y-báo và
chánh-báo.
Y, Chánh là gì? Kinh Anh-Lạc-Bản-Nghiệp nói: “Sắc thân
của tất cả hữu-tình thuộc về phần chủ thể của nghiệp quả, nên gọi là chánh-báo.
Cảnh giới của loài hữu-tình nương tựa và thọ dụng như y phục, thức uống ăn, vật
dụng, phòng nhà, ruộng vườn, cho đến núi, rừng, sông, biển, đất đai, gọi là
y-báo”. Với lập nghĩa bao quát hơn, Hạnh-Nguyện-Phẩm-Sớ-Sao nói: “Quốc độ sở y
hoặc tịnh hoặc uế của phàm thánh là y-báo. Thân năng y của trời, người, nam,
nữ, tại-gia, ngoại-đạo, chư thần cho đến Bồ-Tát, Phật gọi là chánh-báo”. Thế
thì nói cho đủ, y-báo gồm có bốn độ, chánh-báo gồm có mười giới.
1. Chánh-báo: Mười giới của chánh-báo là gì? Ấy là thân
thể của sáu phàm, bốn thánh. Sáu phàm là Địa-ngục, Bàng-sanh, Quỷ-thần,
A-tu-la, Người và Trời. Bốn thánh là Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát và Phật.
Thân thể của lục phàm tùy nghiệp nhân thiện ác mà có xấu đẹp. Bậc Thanh-Văn,
Duyên-Giác về phần tâm thì thanh tịnh, nhưng phần thân vì còn chịu ảnh hưởng
của nghiệp nhân nên cũng có hơn kém khác nhau. Chư Bồ-Tát và Phật do phước huệ
đều thắng, nên cả thân tâm đều trang nghiêm thanh tịnh. Chư Thanh-Văn,
Duyên-Giác ngoài thật thân còn có biến-hóa-thân. Chư Bồ-Tát có biến-hóa-thân và
báo-thân. Chư Phật có đủ ba thân là biến-hóa-thân, báo-thân và pháp-thân. Về
nghĩa tam-thân của Phật, vì xưa nay các Kinh-luận hoặc nói riêng về một phương
diện, nên những nhà học Phật kém công phu nghiên cứu dễ bị mê mờ. Tam-thân theo
Tiểu-thừa và Đại-thừa có chỗ sai biệt; riêng về Đại-thừa lại có thông nghĩa và
biệt nghĩa. Về biệt nghĩa chẳng hạn như Thiên-Thai tông và Mật tông, mỗi bên có
lập thuyết riêng về tam-thân. Nay xin y theo nghĩa Tiểu-thừa và thông nghĩa
Đại-thừa mà giải thích về ba thân của Phật.
Theo Tiểu-thừa, Phật có ba thân: Pháp-thân là thật thể
trong sạch, gồm có năm công đức: giới, định, huệ, giải-thoát,
giải-thoát-tri-kiến. Báo-thân là thân cao một trượng sáu có ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật, do những phước nghiệp kết thành. Hóa-thân là
Phật do lòng từ bi hóa ra thân các dị loại như sư tử, nai, chim hóa độ các loài
ấy.
Theo Đại-thừa, nghĩa tam-thân có phần rộng rãi và phiền
toái hơn. Kể từ thấp đến cao, trước tiên biến-hóa-thân cũng gọi ứng-hóa-thân
nghĩa là chư Phật do lòng từ bi muốn hóa độ chúng-sanh nên hiện ra nhiều thân.
Ứng-hóa-thân có hai: thắng-ứng-thân và liệt-ứng-thân. Liệt-ứng-thân là thân
Phật một trượng sáu là hóa-thân thuộc chín giới. Có chỗ gọi là kim-thân một
trượng sáu là ứng-thân, còn các dị loại do Phật hóa hiện là hóa-thân.
Thắng-ứng-thân là thân Phật nơi Tịnh-độ như kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ nói: “Đức
Phật A-Di-Đà thân cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa do-tuần, viên quang
như trăm ức cõi Đại-thiên. Phật có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám
muôn bốn ngàn vẻ đẹp”.
Báo-thân của Phật cũng có hai: tự-thọ-dụng-thân và
tha-thọ-dụng-thân. Tha-thọ-dụng-thân là như Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni hiện ra thân
Lô-Xá-Na cao một ngàn trượng, có vô lượng tướng hảo, ngồi trên hoa sen ngàn
cánh, vì hàng Thập-Ðịa Bồ-Tát mà thuyết pháp. Bởi Phật hiện ra thân nầy với mục
đích làm lợi lạc cho các bậc đại-sĩ, nên gọi là tha-thọ-dụng. Có chỗ nói
tha-thọ-dụng-thân và thắng-ứng-thân danh khác nhưng thể đồng, vì hai thân nầy
có vi-trần tướng hảo và đó mới chính thật là thân quả báo của Phật do vô lượng
phước lành kết hợp. Tự-thọ-dụng-thân chính là cõi Thật-báo-trang-nghiêm rộng
rãi vô biên bao hàm vi-trần quốc độ. Chư Phật chứng được cảnh giới nầy, tự mình
thọ dụng pháp lạc nhiệm mầu, nên gọi là tự-thọ-dụng. Đây là lấy độ làm thân; và
vì báo-thân có hai nghĩa thọ dụng ấy, nên cũng gọi là thọ-dụng-thân.
Pháp-thân chính là cõi Thường-tịch-quang. Đây là thể
Nhất-chơn pháp-giới bao hàm tánh tướng rộng rãi vô biên; vì Phật lấy pháp tánh
pháp tướng làm thân, nên gọi là pháp-thân. Pháp-thân với tự-thọ-dụng-thân cũng
danh khác thể đồng; tự-thọ-dụng thân hiển phần tướng ẩn phần tánh. Pháp-thân
hiển phần tánh ẩn phần tướng. Pháp-thân đây vì lấy chân-như bản tánh làm thân,
nên cũng gọi là tự-tánh-thân hay pháp-tánh-thân.
Vì nghĩa thắng-ứng-thân thông với tha-thọ-dụng-thân,
pháp-thân thông với tự-thọ-dụng-thân; nên trong Kinh-luận có chỗ gọi
thắng-ứng-thân là báo-thân hoặc tự-thọ-dụng-thân là pháp-thân, làm cho người
học Phật dễ bị mê mờ lầm lạc. Nơi đây xin nói rõ hơn, đối với ba thân của Phật,
các hàng phàm-phu Nhị-thừa chỉ thấy được ứng-hóa-thân; chư Bồ-Tát thấy được
báo-thân, báo-thân nầy về sắc thân có vô lượng tướng hảo, về quốc độ có vô
lượng trang nghiêm; còn pháp-thân duy chư Phật mới chứng kiến một cách viên
mãn. Mỗi vị Phật đều có đủ ba thân, riêng về đấng giáo chủ cõi Ta-Bà, thì
pháp-thân Như-Lai là Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na, báo-thân Như-Lai là Ðức Lô-Xá-Na,
ứng-thân Như-Lai là Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni. Ba Đấng Như-Lai nầy một có đủ ba, ba
chính là một, chỉ vì tùy thuận thế gian mà luận ba thân thế thôi. Ðể giải thích
thêm, đoạn trước tuy nói hàng Nhị-thừa có biến-hóa-thân, chư Bồ-Tát có
biến-hóa-thân và báo-thân nhưng thân của Nhị-thừa, Bồ-Tát chưa được tự tại viên
mãn bằng Phật.
2. Y-báo: Bốn độ của y-báo là gì? Ấy là
Phàm-thánh-đồng-cư-độ, Phương-tiện-hữu-dư-độ, Thật-báo-vô-chướng-ngại-độ và
Thường-tịch-quang-độ.
Phàm-thánh-đồng-cư-độ là cõi có bậc Tam-thừa thánh-nhơn
và phàm-phu ở chung. Cõi nầy chia ra làm hai loại: Phàm-thánh-đồng-cư-tịnh-độ
và Phàm-thánh-đồng-cư-uế-độ. Uế-độ như cõi Ta-Bà dẫy đầy non cao vực thẳm, các
tướng nhơ ác, ngoài Tam-thừa thánh-nhơn ở còn có vô lượng chúng-sanh thuộc sáu
đạo cư trú. Tịnh-độ như cõi Cực-Lạc thanh tịnh trang nghiêm, nơi đây duy có các
bậc Đại-thừa thánh-nhơn và những người niệm Phật vãng sanh ở.
Phương-tiện-hữu-dư-độ là tâm độ của bậc Thanh-Văn,
Duyên-Giác. Nói “phương-tiện” là bởi các vị nầy do tu phương-tiện đạo như
Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên, phá kiến tư hoặc, chứng quả nhơn không. Gọi
“hữu-dư”, vì hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác còn chưa phá được trần-sa và vô-minh-hoặc.
Trí chứng của hàng Nhị-thừa trên đây, thuộc về Nhất-thiết-trí.
Thật-báo-vô-chướng-ngại-độ là báo độ của hàng Đại-thừa
Bồ-Tát. Nói “thật-báo” là bởi các bậc nầy do viên-tu-tam-quán, phá hết
trần-sa-hoặc và một phần vô-minh-hoặc, chứng vào báo độ chân thật của cảnh giới
nhị không. Gọi “vô-chướng-ngại”, vì trong cảnh giới nầy không tức sắc, sắc tức
không, tâm và sắc không ngăn ngại lẫn nhau. Trí chứng của hàng Bồ-Tát trên đây
thuộc về Đạo-chủng-trí.
Thường-tịch-quang-độ là Tịnh-độ của chư Phật. “Thường”
tức là đức Pháp-thân, “Tịch” tức là đức Giải-thoát, “Quang” tức là đức Bát-Nhã.
Đây là cảnh giới nhất chơn, dung thông cả tánh tướng bao la. Ba cõi trên nếu có
gọi Tịnh-độ là chỉ căn cứ ở ít nhiều phần thanh tịnh, riêng cõi
Thường-tịnh-quang mới thật là Tịnh-độ viên mãn cứu cánh. Cho nên kinh
Nhân-Vương nói: “Tam hiền thập thánh ở quả báo; duy Phật mới trụ nơi Tịnh-độ”.
Và trí chứng nầy thuộc về Nhất-thiết-chủng-trí.
Về chánh-báo và y-báo trên đây, hàng phàm-phu vì mê mờ,
bậc Nhị-thừa còn pháp chấp, nên thấy có y, chánh riêng biệt, thân, độ khác
nhau. Chư Phật và Bồ-Tát đã chứng lý nhị không, nên thấy y-báo tức là
chánh-báo, quốc độ nguyên chính tự thân. Đây là những sở kiến biệt và đồng về y
chánh.
Tiết III: Luận Về Đồng Biệt Dị Kiến
Đồng-biệt-dị-kiến tức là đồng-nghiệp-kiến; và
biệt-nghiệp-kiến vì chỗ thấy thuộc về đồng-nghiệp và biệt-nghiệp khác nhau nên
gọi là dị-kiến. Đồng-nghiệp-kiến là ví như trong một đám tiệc, những người
không uống rượu, tâm trí tươi tỉnh, đồng thấy nhà cửa vẫn bình tịnh yên lặng.
Biệt-nghiệp-kiến là như cũng chính cảnh đó, mà người say rượu riêng thấy nhà
cửa, bàn ghế đảo lộn, đất đai nghiêng đổ, gập ghềnh. Lại như cũng đồng một thời
khắc, mà người say mê công việc thấy giờ phút trôi qua rất mau, kẻ khoắc khoải
trông chờ lại cảm thấy ngày dài vô tận. Và như cũng đồng một cảnh mà người có
hỷ sự thấy cây cỏ vui tươi, chim hót như chào, hoa cười như đón; còn kẻ mang
nặng mối sầu, lại thấy trời mây áo não, cây cỏ ưu tư, vật chi cũng đượm một vẻ
u buồn. Đây cũng chỉ tạm mượn việc người để giải thích, thật ra sở kiến của các
loài còn có rất nhiều sai biệt. Cảnh đồng-biệt-dị-kiến nầy đối với chúng-sanh
toàn là vọng, với chư Phật thuần là chơn.
Luận về vọng-kiến-sai-biệt của chúng-sanh, như lửa của
Ngạ-quỷ, loài người thấy là nước; nước của người, Ngạ-quỷ thấy là lửa hay một
dòng sông máu mủ. Như một con sông, loài người thấy là sông, chư thiên thấy là
lưu ly hay bảo địa, loài thủy tộc thấy đó là nhà cửa của chúng. Như một khúc
gỗ, loài người thấy là gỗ, mọt mối thấy đó là thức ăn. Lại như phẩn uế loài
người thấy là chất hôi nhơ, Bàng-sanh thấy là thức ăn thơm ngon; một cỗ tiệc
đầy đủ các món nấu nướng chiên xào, người thấy đó là trân hào mỹ vị, chư thiên
thấy là chất nhơ nhớp. Và như cung điện của người cùng Quỷ-thần đồng ở một chỗ,
song người không thấy cung điện của quỷ, quỷ không thấy cung điện của người;
quỷ đối với tường vách của người thì không ngại, với tường vách của mình thấy
bị ngăn cách, trái lại người cũng vậy. Nói chung, chúng-sanh vì tùy nơi nghiệp
duyên, nên đều ở trong vòng vọng kiến, đồng-nghiệp thì thấy đồng, biệt-nghiệp
lại thấy khác.
Còn chư Phật vì vọng nghiệp tiêu trừ nên không còn sở
kiến sai biệt như chúng-sanh, chỉ thấy muôn cảnh đều hư huyễn toàn là một màu
vắng lặng, không thật, không hư, không đồng, không khác (Phi thật phi hư, phi
như phi dị, bất như tam giới kiến ư tam giới chi tướng (Kinh Pháp-Hoa). Cho nên
cõi Phật cùng cõi chúng-sanh đồng ở một chỗ, nhưng kiếp lửa chỉ làm hoại cảnh
thế gian, Phật-độ vẫn là bất hoại. Vì thế, kinh Hoa-Nghiêm nói:
“Trong mỗi mỗi sát chủng.
Kiếp lửa không nghĩ bàn.
Hiện cảnh tuy đại ác.
Nơi ấy thường kiên cố”.
Kinh Pháp-Hoa cũng nói:
“Chúng-sanh thấy kiếp hết.
Lửa lớn đốt tiêu tan.
Cõi ta đây yên ổn.
Thiên nhơn hằng đông luôn”.
Về điểm nầy, các nhà chú sớ cho cõi hư hoại thuộc về
biến-hóa-độ, cõi không hư hoại chẳng phải chỉ riêng cho pháp-tánh-độ, mà chỉ
cho tha-thọ-dụng-độ; vì pháp-tánh-độ cố nhiên vẫn là như như bất hoại. Cho nên
kiếp lửa chỉ thiêu hoại cảnh thế gian, không thể làm hoại báo độ của chư Phật,
dù rằng hai cõi nầy đồng ở một nơi. Hai cõi tuy đồng, một trụ xứ mà chúng ta
không thấy được Phật-độ, là bởi nghiệp báo không đồng.
Như trong kinh Duy-Ma, ngài Xá-Lợi-Phất thấy cảnh Ta-Bà
nầy đầy dẫy núi rừng, hầm hố và các tướng uế ác, liền nghĩ rằng: “Ðức Thế-Tôn
đã nói nếu tâm Bồ-Tát tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, mà cõi nầy dẫy đầy sự nhơ
ác như thế, chẳng hóa ra tâm của Ngài chưa được thanh tịnh hay sao?”
Loa-Kế-Phạm-Vương biết ý niệm ấy liền bảo Xá-Lợi-Phất: “Ngài chớ nên nghĩ như
thế. Chính tôi thấy quốc độ của Phật Thích-Ca thanh tịnh như
Tự-Tại-Thiên-cung”. Khi ấy, Phật bảo: “Thế nào, Xá-Lợi-Phất! Nhật nguyệt trong
sáng mà người mù chẳng thấy, đó là lỗi tại họ hay lỗi bởi đôi vầng nhật
nguyệt?” Liền đó, Phật bấm ngón chân xuống đất, tức thời ba ngàn thế-giới của
cõi Ta-Bà biến thành thanh tịnh, có đủ trăm ngàn thứ kỳ trân dị bảo trang
nghiêm, ví như cõi Vô-Lượng-Công-Đức-Bảo-Trang-Nghiêm Như-Lai. Ðại chúng thấy
thế đều than thở, khen ngợi cho là việc chưa từng có. Ðức Thế-Tôn lại bảo
Xá-Lợi-Phất: “Phật-độ của ta thường nghiêm tịnh như thế, nhưng vì muốn độ
chúng-sanh hạ liệt, nên thị hiện ra cõi bất tịnh uế nầy. Ví như chư thiên ăn
chung trong một bảo khí, tùy nơi phước đức hơn kém mà mỗi kẻ thấy màu sắc thức
ăn khác nhau. Nếu người nào thanh tịnh, sẽ thấy cõi nầy có đủ công đức trang
nghiêm”.
Về đoạn kinh trên, ngài Cưu-Ma-La-Thập đã giải thích:
“Chư Phật vì muốn xứng hợp với tâm chúng-sanh, nên hiện ra quốc độ không đồng.
Chỗ thấy của Loa-Kế-Phạm-Vương là chỉ tùy sở kiến riêng, thật ra ông cũng chưa
thấy hết sự nghiêm tịnh của Phật-độ Ðức Thích-Ca. Đoạn sau so sánh Phật quốc
của Đức Bổn-sư như cõi Vô-Lượng-Công-Đức-Bảo-Trang-Nghiêm, thế thì biết báo độ
của Ðức Mâu-Ni Thế-Tôn thật rất nghiêm tịnh và ở ngay cõi nầy. Đây là cảnh tịnh
và uế đồng một trụ xứ song không chướng ngại và lẫn lộn nhau; ví như đồng trong
một bảo khí mà hai vị thiên-tử vì phước đức hơn kém, nên thấy có hai thức ăn
sai biệt”.
Tóm lại, pháp-thân nguyên vô tướng, ứng vật mà hiện
hình; chân độ vẫn vô phương, tùy cơ mà hiển lộ. Đây là do nghiệp thiện ác của
chúng-sanh và bản nguyện của chư Phật, nên trong đồng có biệt, trong biệt có
đồng, trong tịnh có uế, trong uế có tịnh vậy.
Tiết IV: Luận Về Cộng, Bất Cộng Biến
Tất cả thế-giới do đâu mà có, và ai là tác-giả? Đó đều
do tâm mà có, và duy tâm tạo ra. Từ vô thỉ đến nay, tất cả chúng-sanh bởi mê
chân hợp vọng, nên cấu thành A-lại-da-thức; do thức nầy mà biến ra các loại căn
thân và khí thế-giới. A-lại-da tức là thức thứ tám, thức nầy chia làm hai phần:
Kiến và Tướng. Kiến phần biến thành bảy thức trước, Tướng phần biến thành căn
thân và khí giới; nội lục căn vì có chấp thọ nên thuộc về thân tướng phần,
ngoại khí giới vì không chấp thọ nên thuộc về sơ tướng phần. Hai món tướng phần
nầy đều do tứ đại hợp thành, tứ đại là năng tạo, y chánh là sở tạo, và tám thức
là chủ thể của năng biến. Tám thức nầy chia thành tam năng biến, mà
A-lại-da-thức lại là động lực căn bản. Vì thế, Duy-thức nói: “Từ vô thỉ làm
nhân. Và sở y các pháp. Do đây có các nẻo. Cùng sự chứng Niết-bàn”. Lại nói:
“Ba cõi không có pháp chi khác, chỉ là một tâm tạo ra. Tất cả nhân-quả,
thế-giới, vi-trần đều nhân tâm mà thành thể”.
Theo như trên, nếu thức biến tợ ra thế-giới, là mỗi thức
riêng biến, hay là các thức chung biến?
Lý nầy rất uẩn khúc, xin chia làm bốn nghĩa để giải
thích:
1. Cộng-trung-cộng-biến: Đây là do sức thành thục của
bát-thức-cộng-tướng-chủng, biến ra các tướng thế gian. Trong đây, tuy sở biến
của các hữu-tình đều riêng, mà tướng tương tợ không khác. Ví như một vùng đèn
đuốc sáng tuy sự sáng ấy do từ cá biệt của các ngọn đèn hợp lại, nhưng tánh
cách sáng của mỗi ngọn đèn đại để đều giống nhau, nên chúng mới tương hợp được.
Như núi non do sức nghiệp Kiến-chấp của những cá biệt chúng-sanh hợp lại biến
thành, sông ngòi do sức nghiệp Tham-ái của những cá biệt chúng-sanh họp lại mà
huyễn hiện. Đây gọi là cộng-biến (cộng-trung). Trong tướng non sông vô chủ của
cộng-biến nầy, mỗi người cho đến các loài đều có thể thọ dụng, nên lại gọi
trùng lập thêm một chữ Cộng (Cộng-trung-cộng).
Ðức Thế-Tôn đã bảo: “Nếu phát minh được chân tâm, trở về
nguồn giác, thì mười phương thế-giới thảy đều tiêu tan”. Từ xưa đến nay những
vị tu hành đắc đạo cũng nhiều, nhưng tại sao thế-giới vẫn còn hiển hiện, hay là
lời Phật nói không đúng ư? - Thưa không! Khi người tu phát minh chân nguyên thì
cảnh giới quả thật cũng tiêu tan, nhưng chỉ tiêu một phần tự-biến của mình mà
thôi; cho đến người chết thác sanh về cõi khác cũng vậy. Như một vùng nhiều đèn
sáng, nếu một đôi ngọn tắt mất hay bị dời đi nơi khác, thì sự sáng cũng vẫn
còn, bởi hãy còn các ngọn đèn kia. Nếu quả thật mỗi chúng-sanh đều trở về nguồn
giác thì tất cả cảnh giới đều tiêu tan, lẽ ấy không còn nghi ngờ chi nữa!
2. Cộng-trung-bất-cộng-biến: Đây là cảnh tự-biến và
riêng mình được thọ dụng trong tướng cộng-biến. Như một dãy núi non hay một
vùng ruộng nương rộng rãi, tuy do nghiệp thức của nhiều chúng-sanh biến hiện;
nhưng có một khoảnh núi hay ruộng do tự thức mình biến tạo và riêng mình được
thọ dụng. Lại như một khu đô thị do nhiều lầu đài nhà cửa của nhiều người hợp
lại mà thành, nhưng trong ấy có một ngôi nhà do mình kiến tạo và chỉ riêng mình
được làm chủ; cảnh tự-biến trong cộng-biến là như vậy.
3. Bất-cộng-trung-cộng-biến: Đây là cảnh sở hữu của một
người mà kẻ khác có thể tạo tác và thọ dụng. Như một khu vườn đất rộng, trước
tiên do một người khai khẩn và làm chủ. Sau người nầy lại cho nhiều kẻ khác
mướn; những kẻ ấy có thể cất nhà cửa, trồng cây cối nơi những vuông đất mình
mướn, và đều có thể thọ dụng phần tạo tác của mình. Vì cảnh tướng trong khu đất
rộng ấy tuy do một người tạo lập và làm chủ, nhưng thật ra cũng do nhiều kẻ
khác kiến thiết và được thọ dụng, nên gọi là cảnh bất-cộng-trung-cộng-biến.
4. Bất-cộng-trung-bất-cộng-biến: Đây là cảnh riêng mình
tạo lập và riêng mình làm chủ. Như anh thợ mộc cất một ngôi nhà, đóng những
giường tủ bàn ghế tùy tự ý để cho mình thọ dụng. Những thứ nầy do anh tạo ra và
chính anh làm chủ, nên thuộc về cảnh tượng bất-cộng-trung-bất-cộng-biến.
Bốn nghĩa thế gian tướng trên đây tuy có uẩn khúc, nhưng
đều không ngoài những điểm: tự-biến, cộng-biến, tự-thọ-dụng, cộng-thọ-dụng.
Đến đây có một điểm nghi cần giải thích. Theo như trên
đã nói thì sắc do thức biến, nhưng tại sao chư thiên ở cõi Tứ-thiền còn tâm
thức, mà cõi ấy lại gọi là Vô-sắc? Vô-sắc-giới chẳng phải không có hình tướng,
nhưng vì sắc chất ấy quá vi tế con mắt tầm thường không thể thấy được, nên gọi
là Vô-sắc. Như Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tỷ căn của Bồ-Tát ngửi biết được mùi thơm
nơi cung điện của cõi Vô-sắc”. Kinh A-Hàm cũng nói: “Khi Tôn-giả Xá-Lợi-Phất
nhập Niết-bàn, chư thiên ở cung trời Vô-sắc rơi nước mắt như mưa!” Cho nên chỗ
thấy của chúng-sanh ở hạ giới thuộc về nghiệp-quả-sắc, hiện cảnh của
Vô-sắc-giới thuộc về định-quả-sắc.
Kinh Hoa-Nghiêm nói:
“Nếu người muốn biết rõ.
Chư Phật trong ba đời.
Nên quán tánh-pháp-giới.
Tất cả do tâm tạo”.
Trong lý tâm tạo nầy lại có nghĩa Tự-tại-biến và
Bất-tự-tại-biến. Bất-tự-tại-biến là chúng-sanh do biệt-nghiệp mà có những cảnh
tướng biến hiện riêng, và bị cảnh giới ấy chi phối nên không được tự tại. Như
loài Ngạ-quỷ do nghiệp tham lam bỏn sẻn, nên thấy đâu cũng là cảnh sông máu,
biển lửa hay sa mạc khô khan, rồi bị khổ trong đó không được tự do. Bởi
chúng-sanh do biệt-nghiệp khiến mỗi loài có những cảnh tướng riêng như thế, nên
cảnh ấy cũng gọi là Tương-vi-thức-tướng. Tự-tại-biến là bậc đắc đạo, đã phá tan
hoặc-nghiệp chứng lý duy-tâm, nên có thể biến hiện cảnh tướng một cách tự tại,
như chỉ cõi đất hóa vàng ròng, khuấy sông dài thành tô lạc. Đây là cảnh tùy
theo chân trí mà biến chuyển, cảnh nầy gọi là Sắc-tự-tại-tướng.
Tóm lại, trong pháp-giới tất cả đều do tâm tạo, mà tâm
là vật, vật là tâm, nên Đức Phật đã bảo: “Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức”.
Đáng lẽ trong đây nên minh luận về các lý duyên-khởi của pháp-giới, nhưng vì
chương nầy có hạn, và bản ý của bút giả cũng muốn lưu lại mục ấy để phân biệt
giữa thuyết Duy-tâm và Duy-thần trên phương diện tìm đường giải thoát, nên xin
hẹn lại ở thiên sau.
Phật
Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Một Trăm Bài Kệ
Niệm Phật
Triệt Ngộ Ðại Sư
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Comments
Post a Comment