Shurangama Mantra with Verses and Commentary

by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua





282. HẤT RỊ ĐỞM

訖唎擔

KRTAM


 

 

Tâm pháp sắc pháp phàm Thánh thông

Nhục đoàn kiên thật giác linh minh

Tam Như Lai tạng đệ nhất nghĩa

Quang chiếu đại thiên tổng viên dung.

 

心法色法凡聖通

肉團堅實覺靈明

三如來藏第一義

光照大千總圓融




ŌM! HẤT RỊ ĐỞM.


Tụng câu chú nầy thì SẮC TÂM BẤT NHỊ.




 Bồ Đề Đạt Ma

Ngộ Tánh Luận

 

Dịch và Phụ Chú: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



VIII

 

Sắc bất tự sắc do tâm cố sắc. Tâm bất tự tâm do sắc cố tâm. Thị tri tâm sắc lưỡng tương câu sanh diệt. Hữu giả hữu ư vô. Vô giả vô ư hữu. Thị danh chơn kiến.


 

VIII.- SẮC TÂM BẤT NHỊ

 

- Sắc chẳng tự nó là sắc, mà do tâm mới là sắc.

- Tâm chẳng tự nó là tâm, mà do sắc mới là tâm.

- Vì thế nên biết rằng tâm và sắc cùng sanh lẫn nhau cùng diệt lẫn nhau.

- Hữu là hữu nơi vô, còn vô là vô nơi hữu.

- Đây gọi là chơn kiến.

 

PHỤ CHÚ.-

 

Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Do tâm sanh mà pháp sanh, cũng do pháp sanh mà tâm sanh. Do tâm diệt mà pháp diệt, cũng do pháp diệt mà tâm diệt”.

 

Đã là do thì sanh diệt chính là chẳng sanh diệt, chỉ như huyễn hóa thôi.



ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH


 

Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

Ngày 10 tháng 4 năm 1990

 

Kính thưa Đại Đức trụ trì cùng chư vị đạo hữu…


Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 105 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này… Lần trước chúng ta đã đến vị thiện tri thức thứ mười tức là vị Đồng Nữ Từ Hạnh.

Trong việc đi sâu vào không hải, đi sâu vào tàng thức sơ năng biến, đến chỗ đáy tàng của tâm thức ấy, trong lộ trình đó, các vị thiện tri thức đều chỉ dạy chúng ta một thứ đó là Đại Bát Nhã, Đại Bi và vô sở cầu hạnh. Dù trong kinh nói rất nhiều hình thái, mầu sắc, nhiều pháp môn và giải thoát môn, nhưng chung quy đi đến cùng thì vẫn chỉ có Bát Nhã, Đại Bi và vô sở cầu hạnh mà thôi.

Tác động của Bát Nhã trong tâm thức là thế nào? Tức là quán chiếu tất cả sự vật, quán mình, quán người, và pháp giới, rồi sau đó chia chẻ các vật thành những vi trần, thành lân hư trần để tiêu dung vào biển không hải ấy. Vậy thì tác động cốt thiết của Bát Nhã là chia chẻ.

Còn tác động cốt thiết của Đại Bi là gì? Là tụ tập. Một khi hành giả chia chẻ những thứ đó thành bụi hào quang rồi, thì các vị lại phải tụ tập các bụi hào quang lại, hợp thành những làn sóng, rồi hiện tướng lên, thành những tướng người, sắc thân, cảnh giới v.v… để độ sanh. Nên tóm lại, tác động của tâm thức cốt thiết có chừng đó thôi, trong khi làm hai tác động ấy, tâm hành giả phải giữ bình lặng đến chỗ vô sở cầu hạnh thì mới đạt đến mức tuyệt vời. Vì vậy, việc hiện hóa thân vô lượng, cảnh giới vô lượng phải do đại bi, tụ tập lại mới được. Nếu ta nhìn thế gian này, thông thường phàm nhân và cả khoa học cũng làm những tác động đó, nhưng làm khác với các vị Đại giác. Thí dụ như khi khoa học khảo xét các cực vi đi vào vật lý, hạt tử, thì cũng chia chẻ sự vật thành nguyên tử, âm điện tử, dương điện tử, trung hòa tử, thành nhiều hạt tử nhỏ v.v…

Đó cũng là một thứ chia chẻ, nhưng không phải là một hành động bát nhã. Vì sao? Vì khoa học còn chấp những thứ bị chia chẻ đều là thật có, nên khoa học chỉ làm tác động của một trí thông minh thế gian thôi, không phải là tác động của bát nhã. Còn về việc tụ tập, khoa học cũng có hành động tụ tập, tỷ dụ như khi họ muốn làm một cái xe, họ cũng tụ tập bằng cách mang các thứ ráp nối lại, từng phần một để tạo nên cái xe, sau đó cho dòng điện và xăng chạy vào, và điện và xăng cũng là thức biến. Song sự tụ tập này không phải là do đại bi, ngược lại nó do sự chấp ngã cùng tham ái thường tình của thế gian, và không biết cái đó là huyễn. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng làm tác động tụ tập và chia chẻ luôn luôn mà không hề biết, và vẫn vấp vào tâm tham ái, không có bát nhã và đại bi. Đồng thời phải nhận rằng khoa học tạo nên nhiều thứ máy, và cũng có những thần thông nho nhỏ. (Những điều này, ta cũng cần biết, vì một khi hiểu đạo Phật thì phải rọi ánh sáng trí huệ vào tất cả nhân gian và pháp giới này để có thể lồng những thứ đó vào tuệ giác của nhà Phật). Chẳng hạn như telephone cũng là một thứ “thiên nhĩ thông” của khoa học, xa mây nghìn cây số cũng nghe được tiếng nói của người thân, hoặc hệ thống truyền hình chiếu từ các nước, ta có thể dùng TV để thấy được, đó là “thiên nhãn thông.” Hoặc một hỏa tiễn bay nhanh và rất xa, thì cũng hơi giống như “thần túc thông.” Nhưng giữa khoa học và nhà Phật khác nhau ở chỗ nào? ở chỗ khoa học chưa dùng được những quang minh (radiations) cực kỳ vi tế và mầu nhiệm của Tâm lực, chỉ dùng được những quang minh thô kệch của vật tức sắc ấm thôi, mà chính khoa học cũng không hiểu được vật là quang minh, vì nó đã tụ lại và hiện tướng rồi. Khoa học cũng chưa hiểu hư không là gì, thời gian là gì, chưa vào được Thọ ấm, Hành ấm, Thức ấm (vì chưa biết Thiền định). Vì vậy, những thần thông nhỏ của khoa học không tự tại, vì phải dùng những ngoại vật ráp nối vào nhau để tạo nên thần thông ấy. Tuy nhiên, khoa học có thể làm cho nhiều người trông thấy, và sử dụng những “thần thông” ấy, như ai ai cũng có thể mở TV để xem, có thể dùng xe đi đây đi đó v.v… Nhưng trong kinh lại tả về đại tự tại lực của chư Phật như trong chúng hội Pháp Hoa chẳng hạn, Phật gia trì và nâng cao tâm thức của chúng hội lên, khiến cả chúng hội đều có thiên nhãn thông, nhìn thấy các cõi thông suốt nhau không ngăn ngại. Thiên nhãn thông nhà Phật rất ghê gớm, vì sao? Vì dùng ngay tâm lực, là cái cỗi nguồn tinh lực nguyên sơ trong pháp giới này, mà không dùng những ngoại vật ráp nối, đồng thời dùng tâm niệm để khởi lên tức khắc. Nhưng con đường đi đến chỗ dụng tâm tuyệt vời đó rất khó, phải cần thiền định nhiều kiếp, có khi đến a tăng kỳ kiếp mới đạt đến mức viên dung ấy. Trái lại, khoa học chĩ cần vài ba chục năm thì có thể phát minh ra nhiều thứ máy rồi. Nên tuy gọi là “thần thông,” nhưng chúng ta phải hiểu hai thứ “thần thông” khác nhau là như vậy.

Nếu chúng ta làm một con đường vòng đi qua ngoại vật, thì chúng ta sẽ đạt đến chỗ của khoa học ngày nay, nghĩa là chóng vánh và dễ được, nhưng rất hạn hẹp và nhiều phiền não. (Phiền não vì lo trả tiền, lo máy hỏng, tâm không yên ổn như lòng người xã hội ngày nay). Nhưng phần đông người đời hay thích những cái có kết quả ngay, vì sao? Vì họ không đủ sự kiên tâm đi con đường dài xa cần khổ của sự tu tập từ kiếp này qua kiếp khác. Phải là người có một lòng tin ghê gớm lắm mới có thể đi con đường Phật đạo, nhưng đến một ngày nào đó, đức A Di Đà hay ngài Quán Thế Âm đưa tay tiếp dẫn thì lúc đó, con đường sẽ thênh thang, dễ dàng, ít ám chướng và tình nhiễm. Tỷ dụ như nói về bệnh, khoa học cũng chĩ mò mẫm chữa được chút đĩnh mà thôi, vì thuốc là gì? Đó chính là sự tụ họp của sắc ấm, tức là một sự lác động bề ngang, mà ta nên nhớ rằng tât cả pháp giới này phụt lên từ điểm không hư, tạo nên thức ấm, rồi hành ấm, rồi tưởng ấm, rồi thọ ấm cuối cùng mới đến sắc ấm. Nên chữa theo khoa học là chữa theo bề ngang, sở dĩ chữa ngang là vì khoa học không dùng được tâm lực, chưa vào được hành ấm, ngay cả tưởng ấm khoa học vẫn còn rất lơ mơ, nên thuốc của khoa học có thể gọi là thuốc của Ma Vương. Tâm lực của chúng ta chỉ theo nghiệp lực phụt lên thôi, chứ chúng ta chưa thể chi phối được nó. Nhưng một khi, nếu dùng tâm lực chữa được thì bệnh tật sẽ khỏi hẳn. Còn như dùng thuốc của Ma Vương chữa theo bề ngang, thì chỉ đỡ được đôi chút, sau lại trở lại, đó là chưa kể đến vân đề side eííect của thuốc đó. Vì nếu ta dùng thuốc này để chữa một bệnh nào đó, thì nó chữa được bệnh đó rồi, lại có thể gây ra một bệnh khác, nên cứ quanh quẩn phải dùng hết thứ thuốc này đến thuốc kia.

Chúng ta hiểu như thế, và nói ra như thế, nhưng chúng ta vẫn phải dùng thuốc của Ma Vương, vì sao? Vì tâm lực của chúng ta còn tồi quá, chưa lên được đến thọ ấm huống chi là lên đến hành âm, nên khó thể tự chữa được, về kinh Phật, cần hiểu rõ về năm ấm, thì nhìn pháp giới mới rõ được, mà về sau, dùng con mắt trí huệ đó nhìn tât cả pháp thế gian, từ tôn giáo, đến các môn học thế gian, các sự chuyển động lăng xăng của tâm thức, chúng ta có thể định giá rất rõ, biết cái nào cao, cái nào thấp, cái nào là hữu hạn, cái nào vô hạn, ngay cả khi ta nói chuyện với một người, ta có thể hiểu tâm thức người đó đang đứng ở mức độ nào, tâm tư ra sao, sự hiểu biết của họ thế nào. về triết học, ngay cả thuyết Thượng Đế cũng đúng đấy, nhưng chỉ đúng ở mức độ chưa tuyệt vời thôi, và tùy theo lối nhìn của chúng sanh mà thấy pháp giới này có một sắc thái nhưthế nào. Tỷ dụ như có người nghĩ rằng vũ trụ này là do những vị quĩ thần cai quản, nên họ phải thờ và lễ lạy, thì cũng được, vì các vị đó cũng có vai trò riêng của họ, họ cũng có một ít thần thông và có thể giúp đỡ họ được chút đỉnh. Giống như một người thường dân đi cung kính mấy anh lính lệ để xin vào thăm tù, nhưng anh lính đó không giúp họ được bao nhiêu, không thể thả thân nhân họ ra khỏi tù. Lên cao hơn thì cung kính vị quan huyện, may ra quan huyện có thể thả được người thân của họ, nhưng vẫn không có thể cứu chuộc được tội nặng. Chỉ khi nào lên đến vua thì lúc đó mới có thể làm được nhiều việc. Tất cả những tôn giáo và những triết học là thế, chỉ tùy theo lối nhìn mà thôi. Vì vậy đạo Phật luôn luôn nhấn mạnh đến ngũ nhãn, mà các tôn giáo khác không hề biết đến, có chăng chỉ biết đến thiên nhãn là cùng. Ngay đến cái huệ nhãn cũng còn không biết chứ đừng nói là pháp nhãn. Không phải chúng ta nói đây để chê bai tôn giáo khác đâu, nhưng nói để gây lòng tin cho người nghe, là về những tôn giáo khác thì thiên đường của họ chỉ ở những tầng trời Dục giới hay sắc giới, chưa ra khỏi ba cõi. Vì thế, chư Phật mới xuất hiện nơi đời bên Ấn Độ, vì ở đó rất nhiều người tu hành, dụng công và cần khổ, giữ những giới cấm rất gay go nhưng lệch lạc, như nằm trên gai, đi trên than hồng, đứng co chân v.v…, và những Ihứ đó vẫn không đưa hành giả đến sự giải thoát.

Bây giờ xin trở về với phẩm nhập pháp giới…

Trước khi đi vào kinh, chúng tôi xin tóm tắt qua về lộ trình của Thiện Tài đi tìm cầu thiện tri thức trong những kỳ giảng qua. Bắt đầu là ngài Đức Vân, nếu ta phân tích dần dần thì chỉ thấy các ngài dạy toàn là Bát Nhã và Đại Bi chứ không có gì khác cả, ngài Đức Vân dạy Thiện Tài một pháp môn là pháp môn Niệm Phật, Chúng ta cũng phải nhớ một điều, trong kinh nói đến 53 vj thiện tri thức tức là tượng trưng cho 53 bậc từ sơ trụ dốn Đẳng Giác, nhưng đó chỉ là hình tướng thôi, còn thực trong kinh rất linh động, vì vị tu có thể vượt một lúc hai, ba bậc được hay có thể thọ giáo 2, 3 vị thiện tri thức về cùng một bậc đó cũng được, vì trong kinh có nhiều vị dạy trùng nhau lắm. Điểm thứ hai là tất cả Bồ Tát đạo chĩ có 10 độ thôi, thì tất cả các vị thiện tri thức này đều tu 10 độ cả, nhưng trong mười độ đó, hành giả trội hơn hẳn về một độ nào đó thì sẽ đắc giải thoát môn về độ đó. Thí dụ có vị tu về bố thí, sau ngài đắc giải thoát môn như “vỗ tận tạng phúc đức” chẳng hạn, nhưng ngài vẫn tu 10 độ. Có vị tu về tâm từ, đó là hạnh nguyện chính, nhưng ngài vẫn song song tu cả 10 độ. Vì vậy, ta không nên chia chẻ ra một cách thứ bực quá đáng, như nói là ở vị thiện tri thức đầu là chĩ ở sơ trụ mà thôi, hay vị thứ hai là nhâ’t thiết ở nhị trụ, hoặc tu bố thí, rồi trì giới, rồi nhẫn nhục v.v… điều đó có vẻ không đúng lắm với ý kinh. Vì sao? Vì các vị đi trên con đường Bồ Tát đạo thường đều tu cả 10 độ, nhưng các vị chọn cho mình một độ chính yếu, tùy theo căn cơ sở thích, thì sẽ đắc được giải pháp môn và tam muội đó. Giải thoát môn tức là tam muội. Trong tam muội có nhiều đà la ni, nhiều khả năng, nhiều diệu đức nở ra trong tâm thức các ngài…

Trở về ngài Đức Vân, ngài dạy môn “Niệm nhát thiết chư Phật cảnh giới quang minh,” tức là dạy niệm Phật để được niệm Phật tam muội. Quán Phật tức dùng tâm tưởng mình quán đức Phật hiện lên trong tâm tưởng của mình, tức là đến mức độ tưởng ấm. Nhưng khi chúng ta thấy đức Phật hiện lên như vậy cũng chưa phải là đức Phật thật đâu, vì đó chỉ là Phật theo tâm tưởng của mình thôi. Khi nào hành giả đưa tâm tưởng sâu vào đến hành ấm rồi thức ấm, thì lúc đó, tự nhiên đức Phật hiện tới tàng thức đó, và hai vị Phật, Phật ở ngoài tâm và Phật ở trong tâm sẽ nhập một, lúc đó cái nhị biên mới được xóa bỏ, mà chỉ còn có một Phật mà thôi. Và Phật này có thể độ mình được. Ta cần phải hiểu điều đó, vì nhiều vị tu thiền cứ nói rằng “duy tâm tịnh độ,” nhưng duy tâm tịnh độ thì hành giả cũng phải khởi ông Phật trong tâm lên trước đã, vào đến tàng thức rồi thì vị Phật ở ngoài mới có thể nhập một vào vị Phật trong tâm được, vì vậy, lên đến tột cùng thì trở thành bình đẳng vô nhị. Và tịnh độ mới duy tâm. Nhưng chúng ta thường thường quán chiếu rất kém, chỉ tu được trì danh thôi… Ngài thứ nhì là ngài Hải Vân, tức là vào đến “cửa bể của tâm.” Ngài kể cho Thiện Tài nghe mà chưa gia trì cho Thiện Tài gì cả, ngài chỉ kể rằng: “Ta ngồi nơi đây quán cái biển này, và luôn suy tư rằng đại hải này sâu thế nào, rộng thế nào, có gì lớn hơn và sâu hơn biển này không, và trong biển hàm chứa tất cả châu báu, chúng sanh thân to lớn, và biển không bao giờ đầy, vơi. Tất cả nước trên thế gian đổ vào biển cũng không bao giờ đầy cả. Quán trong mười hai năm, một chu kỳ viên mãn, thì biển đó mọc lên một đại bửu liên hoa, tức là pháp giới này,” như vậy, ngài dạy Thiện Tài quán giả. chi có đạo Phật mới nói rằng pháp giới này giống một bông liên hoa thôi, vì Phật nhãn của ngài lớn quá, ngài nhìn rõ nó như một đóa hoa để trên bàn tay mà thôi… Ngài thiện tri thức thứ ba là ngài Thiện Trụ, ngài đi trên hư không, Thiện Trụ tức là giữ tâm rất khéo, đi giữa sắc và không, giữa quán giả và quán không, như con chim bay hai cánh mà không lệch bên nào. Nên ngài dạy cho Thiện Tài giữ cái tâm chẳng có, chẳng không… Ngài thứ tư là ngài Di Già, là một vị Cư sĩ, dạy cho Thiện Tài tụng chú, dạy cho Thiện Tài biết tất cả pháp giới này khởi lên từ những diệu âm nguyên sơ, cần làm sao khiến tâm thức mình chuyển động bập bềnh đúng theo tần số của những âm thanh nguyên sơ đó mà chư Phật hằng tụng, như vậy hành giả sẽ dễ nhập vào diệu tâm. Bốn vị này, dạy cho Thiện Tài gần như là đủ những con đường tu chính… Đến ngài thứ 5 là ngài Trưởng Giả Giải Thoát, Thiện Tài đi từ ngài Di Già đến ngài Trưởng Giả Giải Thoát mất 12 năm, cũng là một chu kỳ viên mãn của sự tu tập, tôi đoán trong 12 năm này, Thiện Tài tụng chú và quán chiếu miên mật theo lời dạy của 4 vị thiện tri thức. Tới ngài Giải Thoát, gọi tên là “Giải Thoát” vì ngài trung quán song chiếu giữa giả và không rất thuần thục rồi, nên ngài “nhập pháp giới” ngay cho Thiện Tài trông thấy, ngài nhập pháp giới bằng cách hiện vô số thế giới trong thân mình một cách rõ ràng… Rồi đến vị Hải Tràng Tỳ Kheo, tức là vị thiện tri thức thứ 6, thấy ngài ngồi bất động trong 6 tháng, ngài hiện tất cả những hóa thân vô lượng từ dưới chân, lên đến đầu gối, rồi eo, rồi lưng, rồi ngực, rồi mắt, rồi trán v.v…, có nghĩa là ngài dạy Thiện Tài môn hóa thân vô lượng, vì phải có hóa thân vô lượng mới độ sanh được, Bồ Tát đại sỹ bao giờ cũng đạt tới Pháp thân đại sỹ, hóa hiện sắc thân vô lượng. Rồi đến vị thiện tri thức là ngài Hưu Xả Ưu Bà Di. Vị này chỉ nhắc Thiện Tài có một câu thôi, đó là khi đi trên con đường Bồ Tát đạo, cốt yếu là “Hưu Xả,” hưu là hượm lại, xả là bỏ, có nghĩa là không bao giờ xả bỏ Bồ Đề Tâm. Ở đây, ngài không dạy cho Thiện Tài pháp môn nào cả, mà chỉ dạy cho Thiện Tài luôn luôn phải giữ Bồ Đề Tâm. Đến ngài thứ 8 là một vị ngoại đạo tiên ông tên là Tỳ Mục Cù Sa. Trong kinh Phật, nhiều vị ngoại đạo không phải thật là ngoại đạo, mà là những vị Bồ Tát thị hiện ở trong ngoại đạo, vì sao? Vì phải thị hiện đồng sự với họ, cũng tu như họ để độ sanh để chuyển hóa họ. Vì vậy, đức Phật ra đời các đại đệ tử của ngài đều từ ngoại đạo ra cả. Bắt đầu từ ngài Ca Diếp và đồ chúng của ngài kéo về hơn một nghìn người, rồi đến ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v… Vì khi đức Phật thọ sanh xuống nhân thế, thì các đệ tử của ngài, do tu với ngài từ nhiều kiếp trước, cũng theo ngài thọ sanh như chùm nho, mỗi vị tản mát vào trong ngoại đạo… Trở về với kinh, ngài Tỳ Mục Cù Sa là vị đầu tiên đưa Thiện Tài vào 5 tam muội, ở đây, vì Thiện Tài đã quán không, giả và trung khá thuần thục rồi, cũng là vẫn vào cái biển tâm ấy thôi, nhưng tùy theo mức độ nông sâu mà nhìn hay đắc được một vài tam muội hay nhiều tam muội, ở đây, chúng tôi xỉn nhắc lại một chút về “biển tâm,” vì nó có rất nhiều tên gọi, mỗi tên gọi lại mang theo một ý nghĩa riêng. Nó có thể gọi là biển Diệu Tâm, là chân Như, Pháp Tánh, Phật Tánh, Tột Không, Như Thật Bất Không, cũng gọi là Như Lai Tạng Xuất Triền, xuống thấp nữa vì có vọng thì gọi là Như Lai Tạng Tại Triền, rồi Tàng thức sơ năng biến… Đến vị thiện tri thức kế tiếp là một vị ngoại đạo, là ngài Thắng Nhiệt Bà La Môn. “Thắng Nhiệt” là cái lửa tối thắng, khi Thiện Tài đến thấy vị này đốt một đống lửa lớn, dưới là núi đao, núi đao tượng trưng cho phiền não tà kiến, lửa là dụ cho trí huệ. Tu hành là phải dùng 5 trí huệ của giới, định, huệ, giải thoát, v.v… để tiêu trừ những tà kiến. Và trong khi Thiện Tài từ trên cao nhảy vào núi đao, thì đắc được mây môn tam muội, như “Thiện Trụ tịch tĩnh tam muội.” Tức là lúc đó Thiện Tài trung quán đã giỏi lắm rồi, vì “thiện trụ” tức là khéo trụ giữa cái có và cái không, không nghiêng về bên nào cả. Đến vị thiện tri thức thứ 10 là ngài Từ Hạnh, đó là một vị Đồng Nữ. Ngài cho Thiện Tài xem cung điện của ngài tức là xem cái tàng thức sơ năng biến biến thành những y báo trang nghiêm, vào đó thây mặt gương rất nhiều, tượng trưng cho Bát Nhã và cảnh giới râ’t nhiều tượng trưng cho Đại Bi…

Đó là tóm tắt những vị thiện tri thức mà chúng ta đã đi qua trong những kỳ giảng trước. Thì đây, chúng ta lại tiếp tục cuộc hành trình đi vào tâm thức của Thiện Tài để gặp thêm những vị thiện tri thức kế tiếp. Bốn vị này cũng đều tu về bố thí cả. Thế mới biết, trong con đường Bồ Tát đạo, hành bố thí rất quan trọng, vì nó mở hết cả mọi đường, cũng như việc niệm Phật vậy. Tôi xin đọc mấy câu của Đồng Nữ Từ Hạnh nói về sự chứng đắc của mình.

Kinh:

Này thiện nam tử, đây là môn “Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm.”

Giảng:

“Bát Nhã” là Bát Nhã, còn “phổ trang nghiêm” là Đại Bi, để trang nghiêm y báo và độ sanh. Và sau khi ngài đắc tam muội ấy, thì có trăm vạn đà la ni, những năng khiếu của tâm nỏ ra như hoa, biết tất cả Phật pháp. Như là… môn nghiệp bất thất hoại đà la ni, năng khiếu biết tất cả những nghiệp báo v.v…



18.- VUA ÐẠI QUANG


Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết  “MÔN TAM MUỘI BỒ TÁT ĐẠI TỪ TÙY THUẬN THẾ GIAN”.

 

 

Bấy giờ Thiện Tài nhứt tâm chánh niệm pháp môn như huyễn trí của nhà vua. Tư duy như huyễn giải thoát của nhà vua. Quán sát pháp tánh như huyễn của nhà vua. Phát như huyễn nguyện. Tịnh như huyễn pháp. Khắp ở tất cả tam thế như huyễn mà khởi những biến hóa như huyễn.

Tư duy như vậy, Thiện Tài đi lần qua phương Nam, hoặc đến thành ấp tụ lạc, hoặc đi qua đồng hoang hang hố hiểm nạn, vẫn không mỏi lười, chưa từng ngơi nghỉ. Sau đó mới đến thành Diệu Quang hỏi người thành Diệu Quang ở tại đâu.

Người đáp chính là thành Diệu Quang, là chỗ ngự của VUA ÐẠI QUANG.

Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vô lượng nghĩ rằng thiện tri thức của tôi ở trong thành này. Nay tôi chắc sẽ được thân cận, được nghe công hạnh của chư Bồ Tát, được nghe môn xuất yếu của chư Bồ Tát, được nghe pháp của chư Bồ Tát đã chứng được, nghe công đức bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe bất tư nghì tự tại của chư Bồ Tát, được nghe bình đẳng bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe dũng mãnh bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe cảnh giới quảng đại thanh tịnh bất tư nghì của chư Bồ Tát.

Thiện Tài nghĩ như vậy rồi nhập Diệu Quang thành. Thấy thành này xây bằng thất bửu : kim, ngân, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã não. Hào sâu bằng thất bửu bảy lớp bao quanh, nước bát công đức đầy trong đó, đáy trải cát chân kim, hoa sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng nở đầy mặt nước. Cây đa la báu bảy lớp thẳng hàng. Bảy thứ kim cang làm tường rào bao quanh.

Những là tường bằng sư tử quang minh kim cang. Tường rào bằng vô năng siêu thắng kim cang. Tường rào bằng bất khả trở hoại kim cang. Tường rào bằng bất khả hủy khuyết kim cang. Tường rào bằng kiên cố vô ngại kim cang. Tường rào bằng thắng diệu võng tạng kim cang. Tường rao bằng ly trần thanh tịnh kim cang. Tất cả đều dùng vô số ma ni diệu bửu xen lẫn trang nhgiêm. Các thứ báu xây thành tháp gác.

Thành đó ngang rộng mười do tuần, có tám cửa đều dùng bảy báu nghiêm sức khắp nơi. Ðất bằng tỳ lưu ly bửu, nhiều thứ trang nghiêm rất đáng mến thích.

Trong thành có mười ức đường sá. Mỗi hai bên đường đều có vô lượng nhân dân ở. Có vô số lầu gác bằng vàng diêm phù đàn, lưới tỳ lưu ly ma ni che phía trên. Vô số lầu gác bằng bạch ngân, lưới xích chơn châu ma ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng tỳ lưu ly, lưới diệu tạng ma ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng pha lê, lưới vô cấu tạng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng quang chiếu thế gian ma ni bửu, lưới nhựt tạng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng đế thanh ma ni bửu, lưới diệu quang ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng chúng sanh hải ma ni vương, lưới diệm quang ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng kim cang bửu, lưới vô năng thắng tràng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng hắc chiên đàn, lưới thiên mạn đà la hoa giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng vô đẳng hương vương, lưới nhiều thứ hoa giăng phía trên.

Thành Diệu Quang còn có vô số lưới ma ni, vô số lưới bửu linh, vô số lưới thiên hương, vô số lưới thiên hoa, vô số lưới bửu hình tượng, vô số lưới bửu y trướng, vô số bửu cái trướng, vô số bửu lâu các trướng, vô số bửu hoa man trướng giăng che.

Khắp nơi kiến lập bửu cái tràng phan.

Trong thành Diệu Quang có một lâu các tên là chánh pháp tạng, trang nghiêm với vô số bửu vật chói sáng rực rở không gì sánh bằng, nhìn xem không chán.

Vua Ðại Quang thường ở trong lầu này.

Thiện Tài đồng tử đối với những vật trân bửu đẹp và các nam nữ đến lục trần cảnh giới này đều không mến luyến. Chỉ nhất tâm chánh niệm tư duy pháp cứu cánh. Nhứt tâm thích muốn được thấy thiện tri thức.

Thiện Tài đi lần vào thành thấy Ðại Quang Vương ở giữa ngã tư đường cách lầu chánh pháp tạng không xa ngồi trên tòa sư tử quảng đại trang nghiêm như ý ma ni bửu liên hoa tạng. Chân tòa này bằng lưu ly bửu màu biếc, lụa vàng làm màn, các báu làm lưới, thiên y thượng diệu làm nệm.

Thân nhà vua có hai mươi tám tướng tốt, đủ tám mươi tùy hảo. Xem như tòa núi chơn kim, màu sắc và ánh sáng rực rỡ. Như mặt nhựt trên không oai quang chói mắt. Như mặt trăng tròn làm mát mẻ người ngó thấy. Như Phạm Thiên Vương ở giửa Phạm Chúng. Như đại hải công đức pháp bửu không cùng tận. Như núi Tuyết nghiêm sức với rừng cây tướng hảo. Như mây lớn hay chấn pháp lôi cảnh tỉnh mọi loài. Như hư không hiển hiện những tinh tướng pháp môn. Như núi Tu Di bốn màu hiện khắp trong tâm hải của chúng sanh. Như bửu đảo đầy những trí bửu.

Trước tòa của vua ngự có từng khối vàng bạc, lưu ly, ma ni, chơn châu, san hô, hổ phách, kha bối, bích ngọc, y phục, anh lạc và những đồ ăn thức uống.

Lại thấy vô lượng trăm ngàn muôn ức xe báu thượng diệu, trăm ngàn muôn ức những kỹ nhạc cõi trời. Trăm ngàn muôn ức những hương thơm cõi trời. Trăm ngàn muôn ức thuốc men và đồ tư sanh. Vô lượng bò sữa, móng sừng màu chơn kim. Vô lượng ngàn ức nữ nhơn đoan chánh, chiên đàn thượng diệu thoa trên thân, trang sức với thiên y anh lạc, đều giỏi rành sáu mươi bốn nghề hiểu rõ thế tình lễ phép, tùy theo tâm của chúng sanh mà cung cấp bố thí.

Bốn bên ngã tư đường đều để đầy những đồ tư sanh.

Có hai mươi ức Bồ Tát đem những vật này thí cho các chúng sanh. Vì muốn nhiếp khắp chúng sanh. Vì muốn chúng sanh hoan hỷ. Vì muốn chúng sanh hớn hở. Vì muốn cho chúng sanh tâm thanh tịnh. Vì muốn cho chúng sanh được thanh lương. Vì diệt trừ phiền não cho chúng sanh. Vì làm cho chúng sanh biết tất cả nghĩa lý. Vì làm cho chúng sanh nhập đạo Nhứt thiết trí. Vì làm cho chúng sanh bỏ tâm oác thù. Vì làm cho chúng sanh lìa sự ác nơi thân ngữ. Vì làm cho chúng sanh dứt các tà kiến. Vì làm cho chúng sanh tịnh các nghiệp đạo.

Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Ðại Quang Vương, hữu nhiễu vô lượng vòng chắp tay đứng tâu rằng :

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm Vô Thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Tôi nghe đức Thánh hay khéo chỉ bảo, xin dạy cho.

Vua nói :

Này thiện nam tử ! Ta tịnh tu Bồ Tát đại từ tràng hạnh. Ta đầy đủ Bồ Tát đại từ tràng hạnh.

Này thiện nam tử ! Ta ở chỗ vô lượng trăm ngàn muôn ức nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật hỏi han pháp này, tư duy quán sát tu tập trang nghiêm.

Này thiện nam tử ! Ta dùng pháp này làm vua, dùng pháp này dạy bảo, dùng pháp này nhiếp thọ, dùng pháp này mà ở thế gian, dùng pháp này dẩn đạo chúng sanh, dùng pháp này khiến chúng sanh tu hành, dùng pháp này khiến chúng sanh xu nhập, dùng pháp này cho chúng sanh phương tiện, dùng pháp này khiến chúng sanh huân tập, dùng pháp này khiến chúng sanh khởi hạnh, dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ tư duy tự tánh của các pháp. Dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ từ tâm, lấy từ làm chủ, đầy đủ từ lực. Như vậy, khiến họ an trụ tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm ai mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ chúng sanh không rời bỏ rời, tâm cứu chúng sanh khổ không thôi nghỉ.

Ta dùng pháp này làm cho chúng sanh rốt ráo khoái lạc, hằng tự vui thích, thân không khổ, tâm mát mẻ dứt ái nhiễm sanh tử, mến chánh pháp vui, rửa nhơ phiền não, phá chướng ác nghiệp, tuyệt dòng sanh tử, vào biển chơn pháp, dứt những loài hữu lậu, cầu nhất thiết trí, tịnh những biển tâm, phát sanh đức tin bất hoại.

Này thiện nam tử ! Ta đã an trụ nơi hạnh đại từ tràng này, có thể dùng chánh pháp giáo hóa thế gian.

Này thiện nam tử ! Trong quốc độ của ta, tất cả chúng sanh, đối với ta, không có sự kinh sợ.

Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh nghèo cùng khốn thiếu đến ta để cầu xin, ta mở cửa kho, cho họ tha hồ mà lấy. Tao bảo họ rằng :

Chớ làm điều ác, chớ hại chúng sanh, chớ sanh tà kiến, chớ có chấp trước. Các người có thiếu thốn thứ gì, cứ đến ta hoặc các ngã tư đường, có đủ tất cả vật dụng, tùy ý mà lấy khỏi phải nghi ngại.

Này thiện nam tử ! Thành Diệu Quang này tất cả chúng sanh đều là Bồ Tát phát tâm Ðại thừa, tùy ý muốn nên chỗ thấy chẳng đồng. Hoặc có kẻ thấy thành này nhỏ hẹp. Có kẻ thấy thành này rộng lớn. Có kẻ thấy là đất cát. Có kẻ thấy là các báu trang nghiêm. Có kẻ thấy đắp đất làm tường rào. Có kẻ thấy tường bao quanh toàn bằng chất báu. Hoặc có kẻ thất mặt đất đầy những ngói đá cao thấp. Có kẻ thấy là đại ma ni bửu xen lẫn trang nghiêm bằng phẳng. Có kẻ thấy nhà cửa bằng gổ đất. Có kẻ thấy là điện đường lầu gác thềm bực cửa nẻo đều bằng diệu bửu.

Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh, tâm họ thanh tịnh từng gieo trồng căn lành, cúng dường chư Phật, phát tâm xu hướng đạo nhất thiết trí lấy nhất thiết trí làm chỗ cứu cánh và được ta thuở xưa, lúc tu Bồ Tát hạnh từng nhiếp thọ họ, thời những chúng sanh này thấy thành đây bằng diệu bửu trang nghiêm. Ngoài ra, những kẻ khác lại thấy là thô xấu.

Này thiện nam tử ! Trong quốc độ đây lúc đời ngũ trược, tất cả chúng sanh phần nhiều thích làm ác. Ta vì thương họ, muốn cứu độ họ mà nhập môn tam muội đại từ tùy thuận thế gian.

Lúc ta nhập tam muội này những chúng sanh làm ác kia, có những tâm bố úy, tâm não hại, tâm oán thù, tâm tránh luận, đều tiêu diệt tất cả.

Tại sao vậy ?

Vì khi nhập tam muội đại từ tùy thuận thế gian thời công năng của tam muội này tất nhiên là như vậy.

Này thiện nam tử ! Chờ giây lát ngươi sẽ tự thấy.

Bấy giờ Ðại Quang Vương liền nhập tam muội này. Cả thành Diệu Quang, trong ngoài đều chấn động sáu cách. Những bửu địa, bửu tường, bửu đường, bửu điện, bửu đài quán, bửu lâu các, thềm bực, cửa nẻo, tất cả đều phát ra tiếng diệu âm, đều hướng về phía vua Ðại Quang.

Trong thành Diệu Quang tất cả cư dân đồng thời vui mừng hớn hở, đều hướng về phía nhà vua mà gieo mình đảnh lễ.

Tất cả nhơn chúng trong thôn dinh thành ấp đều đến ra mắt vua, đều hoan hỉ kính lễ.

Gần chỗ vua ở, những loài điểu thú đều yêu mến săn sóc nhau, đều có lòng mến kính nhà vua.

Tất cả núi đồi và cây cỏ đều xoay hướng về phía nhà vua.

Tất cả ao, suối, sông, biển thảy đều tràn nước chảy đến phía trước chỗ vua ngự.

Có mười ngàn Long Vương nổi mây lớn thơm, nhoáng chớp nổ sấm mưa nhỏ pháy pháy.

Có mười ngàn Thiên Vương , như là Ðao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Ðâu Suất Thiên Vương, Thiện Biến Hóa Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên vương v.v… Ở trên hư không tấu nhạc. Vô số Thiện nữ ca ngâm khen ngợi, mưa vô số mây thơm, vô số mây hoa, vô số mây tràng hoa, vô số mây bửu y, vô số mây bửu cái, vô số mây bửu tràng, vô số mây bửu phan, để trang nghiêm cúng dường nhà vua.

Ðại Tượng Vương Y La Bà Noa dùng sức tự tại ở trên hư không rải vô số bửu liên hoa, thòng vô số bửu anh lạc, vô số bửu đới, vô số bửu man, vô số bửu trang nghiêm cụ, vô số bửu hoa, vô số bửu hương, các thứ kỳ diệu để nghiêm sức, vô số thế nữ ca ngâm khen ngợi.

Trong Diêm Phù Ðề lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức La Sát Vương, Dạ Xoa Vương, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà Vương, hoặc ở đại hải, hoặc ở lục địa, uống huyết ăn thịt tàn hại chúng sanh, tất cả đều sanh từ tâm, nguyện làm lợi ích, biết rõ đời sau nên chẳng tạo điều ác, cung kính chắp tay đảnh lễ Ðại Quang Vương.

Như Diêm Phù Ðề, ba thiên hạ khác, nhẫn đến Ðại Thiên thế giới, trong mười phương bá thiên vạn ức na do tha thế giới có bao nhiêu chúng sanh độc ác đều cũng phát từ tâm như vậy.

Bấy giờ Ðại Quang Vương xuất định bảo Thiện Tài rằng :

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết “MÔN TAM MUỘI BỒ TÁT ĐẠI TỪ TÙY THUẬN THẾ GIAN”.

Như chư đại Bồ Tát làm lọng cao, vì từ tâm che khắp các chúng sanh. Chuyên tu hành, vì những hạnh hạ trung thượng đều bình đẳng thật hành. Làm đại địa, vì có thể dùng từ tâm nhiệm trì tất cả những chúng sanh. Làm mặt trăng tròn, vì phước đức quang minh ở trong thế gian bình đẳng hiển hiện. Làm mặt nhật sáng, vì dùng trí quang minh chiếu diệu tất cả cảnh sở tri. Làm đèn sáng, vì có thể phá những hắc ám trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm thủy thanh châu, có thể lóng trong những chất đục siểm cuống trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm như ý bửu, vì có thể thỏa mãn tâm sở nguyện của tất cả chúng sanh. Làm đại phong, vì mau làm cho chúng sanh tu tập tam muội nhập đại thành Nhứt thiết trí.

Ta làm sao biết được hạnh đó, nói được đức đó, làm sao cân lượng được núi lớn phước đức đó, làm sao chiêm ngưỡng được ngôi sao sáng công đức đó, làm sao quán sát được phong luân đại nguyện đó, làm sao xu nhập được pháp môn thậm thâm đó, làm sao hiển thị được đại hải trang nghiêm đó, làm sao xiển minh được hạnh môn Phổ Hiền đó. Làm sao khai thị được hang tam muội. Làm sao tán thán được mây đại bi đó.

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một vương đô tên là An Trụ, có Ưu bà di tên là Bất Ðộng.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Ðại Quang Vương, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.



Kinh:

Này thiện nam tử, phương Nam đây có thành tên là Diệu Quang. Nhà vua tên Đại Quang. Ngươi qua đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.

Giảng: Diệu Quang, và Đại Quang cũng vẫn chỉ về quang minh vừa diệu vừa rộng lớn, nhà vua này tu theo tâm Từ, vì ngài đắc được môn giải thoát “Bồ Tát Đại Từ Tràng.” Vị này đi trên con đường Bồ Tát đạo, ngài tu cả mười độ, nhưng ngài chuyên chội hơn hết về tâm từ. Mà tâm từ rất ghê gớm, vì khi ngài nhập từ tam muội, thì tất cả cỏ cây, núi sông đều ngả ngọn về ngài, các loài chúng sanh trong các cõi đều bỏ tâm ác. Cũng như khi đức Phật nhập tâm từ, có con voi say chạy đến ngài mà không sao cả, con voi say phải quì mọp hàng phục. Một thí dụ khác là đức Phật nhập từ tam muội, ngài chữa cho 500 tên cướp bị khoét mắt sau đó mắt sáng trở lại như cũ. Nên phải hiểu, tâm từ lên đến mức độ cao thì rất là thần biến và ghê gớm. Đó là một môn tu vừa Đại Bi vừa là Bát Nhã.

 

Nam Mô Vô Ngại Quang Như Lai.


Comments

Popular posts from this blog