Shurangama Mantra with Verses and Commentary

by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua





334. SÁCH HÊ DẠ

索醯夜

SAHEYAM

 

 

Diệu trí giáo đạo tinh tấn niệm

Thành nghĩa lợi hành danh Kim Cang

Na trá hỏa luân anh vũ điểu

Chiến vô bất thắng hóa thập phương.

 

妙智教導精進念

成義利行名金剛

火輪鸚鵡鳥

戰無不勝化十方



ŌM! SÁCH HÊ DẠ.

Tụng câu chú nầy, thì ĐẮC VÔ SỞ ĐẮC.



 Bồ Đề Đạt Ma

Ngộ Tánh Luận

 

Dịch và Phụ Chú: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



11.- ĐẮC VÔ SỞ ĐẮC

 

Mê thời lục thức ngũ ấm giai thị phiền não sanh tử pháp. Ngộ thời lục thức ngũ ấm giai thị Niết bàn vô sanh tử pháp. Tu đạo nhơn bất ngoại cầu đạo. Hà dĩ cố? Tri tâm thị đạo. Nhược đắc tâm thời vô tâm khả đắc. Nhược đắc đạo thời vô đạo khả đắc. Nhược ngôn tương tâm cầu đạo đắc giả, giai danh tà kiến. Mê thời hữu Phật hữu pháp. Ngộ thời vô Phật vô pháp. Hà dĩ cố? Ngộ tức thị Phật pháp.


 

- Lúc mê: sáu thức, năm ấm đều là pháp phiền não sanh tử.

- Lúc ngộ: sáu thức, năm ấm đều là pháp Niết bàn vô sinh.

- Người hành đạo chẳng cầu đạo nơi ngoài, vì biết rằng chính tâm mình là đạo.

- Nếu được tâm, không có tâm để được.

- Nếu đắc đạo, không có đạo để đắc.

- Nếu cho rằng đem tâm cầu đạo để đắc, gọi là tà kiến.

- Lúc mê: có Phật, có pháp. Lúc ngộ: không Phật, không pháp. Vì chính ngộ là Phật là pháp vậy.

 

 

PHỤ CHÚ.-

 

Tánh mình vốn thanh tịnh đầy đủ tất cả công đức ở phàm không khuyết giảm. Kinh Kim Cang có câu: “Phàm phu ấy chẳng phải là phàm phu”. Chỉ tại mê mà không tự nhận lấy tánh mình nên kinh nói tiếp: “Đây gọi là phàm phu”.

 

Ở Thánh tánh ấy cũng chẳng tăng thêm nên kinh Kim Cang dạy: “Đệ nhứt Ba la mật chẳng phải đệ nhứt Ba la mật”. Chỉ do ngộ mà nhận được tánh ấy, nên kinh nói tiếp: “Đây gọi là đệ nhứt Ba la mật”.

 

Đã thiệt ngộ thì tự tánh phô bày, nên chính ngộ là tự tánh, tự tánh là ngộ. Không kia đây đối lập nên không hay được, không bị được. Kinh Kim Cang dạy: “Nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đức Phật không được chút pháp nào”.

 

Tổ Sư bảo: “Bảo Tăng nhà mình không đoái hoài lại đi cầu nơi ngoài làm chi”. (Lời Mã Tổ bảo Huệ Hải).


 


BỔN-THÂN NGÀI NHƯ-Ý-LUÂN BỒ-TÁT


2. 南nam 無mô 阿a 唎rị 耶da
_______________________________________
身thân
 口khẩu 意ý 輪luân 大đại 總tổng 持trì

Tứ thập nhị thủ diệu vô cùng

Thông thiên đạt địa cảm mê mông

Bài nỗ cung tiễn uy thần tốc

Cường giả điều phục nhược giả hưng.




 

Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba Mươi Lăm

Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh.

A Ra Sâm [38]

Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                                 ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

ŌM! SÁCH HÊ DẠ.



35.   The Transformation Buddha on the Palm Hand and Eye
         
Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp



 
Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Hai Mươi Chín

Niệm tư tại tư vọng quy chơn
Thập phương chư Phật thọ thủ thân
Tốc chứng tam bối phẩm tư địa
Ma ha diệu pháp thắng linh văn.

Phật Ra Xá-Lợi [38]
Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,
                   đát ra dạ dã. 
                                       Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,
                                                 tất địa tất đà lật thế,
                                                                                      tát-phạ hạ.

ŌM! SÁCH HÊ DẠ.



29.  The Recitation Beads Hand and Eye
       
 Sổ-ChâuThủ Nhãn Ấn Pháp




Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử

VIÊN-THÔNG VỀ KIẾN-ĐẠI

 

Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội. Ví-như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau. Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có  mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm. Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."



 


Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

Như-Ý Giảng giải 

 

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.

 

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.



BÀI SỐ 100

 

Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu

Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu

Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm

LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

 

NHƯ Ý : 3 Điểm TÍN-NGUYỆN-HẠNH với sự CHÍ-THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-Độ, Tuy nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.

 

Đạo NHO bảo:


“Phóng Chi Tắc Di  Ư Lục Hiệp,

Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”

(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,

Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)


 

Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.

 





BẮC PHƯƠNG PHẬT GIÁO VỚI

NHÂN-DUYÊN TỊNH-ĐỘ

 

Theo thông lệ ở Thiền môn Việt Nam, vào thời khóa đầu hôm, chư Tăng Ni các Chùa đều tụng Kinh A-Di-Đà, tiếp theo niệm hồng danh của Tây Phương Tam Thánh (Di Đà, Quán Âm, Thế Chí). Và hàng Phật tử xuất gia hoặc tại gia, khi gặp người đồng đạo, đều chắp tay chào mừng bằng “A-Di-Đà Phật”.

 

Pháp môn Niệm Phật, quả thật đã ứng hợp với thời cơ, với bản hoài của Phật mà âm thầm đi sâu vào tiềm thức Phật tử Việt Nam. Chẳng những tại đất nước này, mà ở Trung-Hoa, Triều-Tiên, nơi nào có Phật Giáo lưu hành, là nơi đó hầu hết hàng Phật tử đều không quên câu niệm Phật. Phật Giáo đồ ở Nhật-Bản cũng có truyền thoại như sau:

Mật-Tông và Thiên-Thai-Tông để cho hàng quý phái, Thiền-Tông cho võ sĩ đạo, và Tịnh-Độ-Tông cho hạng bình dân”.

Mà bình dân là hạng chiếm đa số.

 

Xem thế thì biết ở các xứ Bắc Tông Phật Giáo, những người xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà chiếm phần tối đa.

 


PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ

  

Dao Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La Thập dịch

Việt Dịch : HT.TRÍ-TỊNH

 

PHẦN LƯU-THÔNG

  

KINH nầy không AI hỏi, mà PHẬT THÍCH-CA tự nói ra, vì cõi CỰC-LẠC chỉ có PHẬT cùng PHẬT mới HIỂU được và TRUYỀN BÁ LƯU THÔNG bộ KINH nầy.

 

SÁU PHƯƠNG PHẬT và PHẬT THÍCH-CA  ĐỒNG

“KHUYÊN-TÍN” ĐỂ LƯU-THÔNG

 

Xá- Lợi- Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A- Súc- Bệ- Phật, Tu- Di- Tướng Phật, Đại- Tu- Di Phật, Tu- Di- Quang Phật, Diệu- Âm Phật; Hằng hà sa số những Đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: 

 

“Chúng sanh các người phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

 

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng- Thọ Phật, Vô- Lượng- Tướng Phật, Vô- Lượng- Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại- Minh Phật, Bửu- Tướng Phật, Tịnh- Quang Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: 

 

“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

 

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm- Kiên- Phật, Tối- Thắng- Âm- Phật, Nan- Trở Phật, Nhựt- Sanh Phật, Võng- Minh Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:

 

“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

 

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư- Tử Phật, Danh- Văn Phật, Danh- Quang Phật, Đạt- Mạ Phật, Pháp- Tràng Phật, Trì- Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:

 

“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

 

Xá- Lợi- Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm- Âm- Phật, Tú- Vương- Phật, Hương- Thượng- Phật, Hương- Quang- Phật, Đại- Diệm- Kiên Phật, Tạp- Sắc- Bửu- Hoa- Nghiêm- Thân Phật, Ta- La- Thọ- Vương Phật, Bửu- Hoa Đức Phật, Kiến- Nhứt- Thiết- Nghĩa Phật, Như- Tu- Di- Sơn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:

 

“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

 


Xá- Lợi- Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt- Thiết- Chư- Phật Sở Hộ Niệm?

 

Xá- Lợi- Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ-trì đó, và nghe danh hiệu của các Đức Phật, thời những thiện-nam tử cùng thiện-nữ nhơn ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

 

Xá- Lợi- Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

 

SÁU PHƯƠNG PHẬT và PHẬT THÍCH-CA  ĐỒNG

“KHUYÊN-NGUYỆN ĐỂ LƯU-THÔNG

 


Xá- Lợi- Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của Đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

 

Xá- Lợi- Phất! cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

 

 

SÁU PHƯƠNG PHẬT và PHẬT THÍCH-CA  ĐỒNG

“KHUYÊN-NIỆM PHẬT ĐỂ LƯU-THÔNG

  

Xá- Lợi- Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời này: “Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền trược, não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tát cả thế gian khó tin này”.

 

Xá- Lợi- Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!

 

(  PHẬT THÍCH-CA THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ còn khó hơn là ở TA-BÀ NGŨ-TRƯỢC, TU THÀNH VÔ THƯỢNG CHÁNH GIÁC, ĐỂ KHUYÊN NIỆM PHẬT A-DI-ĐÀ )

 


Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá- Lợi- Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A- Tu- La, v..v… nghe lời của Đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ Phật mà lui ra.

 


PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ

 

CHUNG



Thứ Ba Mươi Tám

Thô tà hộ chánh kim cang luân
Ly mỵ vọng lượng câu độn hình
Bồ đề đạo tâm thường bất thoái
Kim thân nãi chí thành Phật thân 


Bồ-Đề Dạ [46]
Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.


BÀI KỆ THỨ 45

 

Một câu A Di Ðà
Chẳng khó, nhưng không dễ.
Ðược về chín phẩm sen
Một đời dùng tâm lực.

(Nhứt cú Di Ðà
Phi nan, phi dị.
Cửu phẩm liên hoa
Nhứt sanh tâm lực.)


LƯỢC GIẢI


Môn Niệm Phật quả dễ thật hành, câu hồng danh niệm ra không phải khó. Tuy nhiên, niệm với tâm TÍN NGUYỆN chắc thật, niệm với HẠNH bền bỉ lâu dài, niệm với ý dứt tuyệt trần duyên, lại là điều không phải dễ.


Với ba điều kiện vừa kể trên, trong muôn ngàn người khó tìm được một. Cho nên cũng đừng vội xem thường hạnh Niệm-Phật. Muốn được dự vào chín phẩm sen ở cõi Tây phương, người tu tịnh nghiệp phải đem hết năng lực của thân và tâm, chẳng nài khổ nhọc thật hành suốt một đời, mới mong đạt được kết quả.


TRƯỜNG LINH

 

Thích Trường Linh, người huyện Trấn Hải tỉnh Triết Giang, vào tuổi trung niên mới đến xuất gia tại một ngôi chùa ở Mâu Sơn. Năm sau, sư thọ giới Sa Di nơi chùa Phổ Đà. Kế tiếp tới Phổ Ninh Tự thọ Tỳ kheo giới.


Ban sơ, Trường Linh tỏ ra rất có đạo tâm. Nhưng sau vì lãnh trụ trì một ngôi chùa nhỏ, không ai quản thúc, nên tự do lui tới giao tiếp với bạn bè xấu ác. Rồi dần dà sư nhiễm quen thói hư, phóng đãng chơi bời, lãnh đám tụng kinh mướn, đua lợi tranh danh, cho đến ăn thịt uống rượu.

 

Lúc lớn tuổi, sư nghĩ lại việc cũ, sanh lòng ăn năn hổ thẹn. Được tin Liễu Thanh hòa thượng ở sơn am gần chùa Phổ Đà, tổ chức hội niệm Phật chuyên tu Tịnh độ. Trường Linh khẳng khái xếp lại mọi việc, mang y bát đến tham dự. Sau khi nghe Liễu công thuyết pháp chỉ dạy, sư mới biết đường lối của Tịnh tông, liền dứt bỏ hết tập quán xấu, một lòng tin sâu nguyện thiết, niệm Phật cầu sanh Tây phương.

 

Năm Dân Quốc thứ hai mươi, hàng nhơn sĩ ở Đại Sơn thỉnh Trường Linh đến trụ trì chùa Siêu Quả núi Bồng Lai thuộc mặt biển phía tây bắc Phổ Đà Tự, để hướng dẫn chư thiện tín tu hành. Lúc ấy sư đã suy yếu lớn tuổi, thỉnh thoảng hay phát chứng suyễn. Sang năm Dân Quốc thứ hai mươi mốt, vào ngày mùng tám tháng bảy. Trường Linh dự biết ngày lâm chung, bảo chúng rằng:

“Xin thỉnh vài vị Tăng tới niệm Phật, giúp tôi sanh về Tây phương!”

 

Khi chư tăng đến, sư lại nói:

“Hiện sắp tới rằm Trung ngươn, xin trước tiên hành khóa Chẩn tế, để làm lợi vui cho khắp kẻ âm người dương”.


Sau ba ngày pháp sự viên mãn, sư liền thỉnh chúng sang ngọa thất thương lượng về cách thức trợ niệm, rồi tự cử xướng trước, mọi người đều niệm theo đến hết một cây hương. Sáng sớm ngày mười hai, Trường Linh bảo nấu nước trầm đàn, tự tắm gội sạch sẽ, xong đắp y cầm cụ, nhờ người dìu lên đại điện niệm hương lễ Phật, rồi trở về ngọa thất. Khi cho người khiêng chiếc bảo khám tới xong, sư vào trong ngồi ngay thẳng, gương mặt lộ vẻ tươi cười, nói:

Trước xin cảm tạ các vị đã gần gũi chiếu cố đến tôi trong mấy tháng. Sau nguyện mong tất cả đều cố gắng niệm Phật, để cùng nhau tái hội ở Liên bang! Lúc nầy so với thuở bình thời chẳng đồng, nên vì tôi niệm đủ mười sáu chữ:

 

“Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật”.

Chúng đáp tuân mạng, rồi cử xướng trì niệm.

 

Trường Linh cũng chắp tay niệm theo, hiện nét tươi sáng vô tả! Được một lúc sư buông tay trái xuống để lật ngửa trên đầu gối, tay mặt vịn vào vách bảo khám, sẽ cúi đâu mà viên tịch, thân tâm an vui, không lộ một chút chi thống khổ.

Bấy giờ đúng ngọ ngày mười hai tháng bảy. Sư hưởng thọ được sáu mươi tuổi.

 


LỜI BÌNH:

 

Đức Thế Tôn bảo: 

“Kẻ tạo tội Ngũ nghịch, Thập ác, lúc lâm chung chí tâm niệm hồng danh A Di Đà mười niệm đều được vãng sanh”. 

 

Điều trên đây tuy do hạt giống niệm Phật kiếp trước đã đến thời kỳ thành thục, nhưng cũng toàn nhờ sức TÍN-NGUYỆN-HẠNH trong HIỆN ĐỜI cảm thông với từ lực của đức A Di Đà, nên mới được như thế.

Sư Trường Linh nhiều năm cẩu thả may trong cảnh muộn biết hồi đầu, khi lâm chung được điềm tốt, âu cũng là một loại như các vị Hùng TuấnDuy Cung đó ư?

 

Hai vị Tăng thuật lại chuyện nầy là Hựu-Quán và Nguyệt-Tịnh có nói:

“Đại chúng ở chùa Pháp Võ non Phổ Đà hơn vài mươi năm nay, tuy nghe Ấn Quang đại sư hoằng dương khen ngợi pháp nhiệm mầu đặc biệt đới nghiệp vãng sanh của môn Tịnh độ, song hãy còn nửa tin nửa ngờ. Đến khi thấy sư Trường Linh, một người đã tạo nhiều tội mà được vãng sanh, mới không còn nghi lời thiết thật của đức Thế Tôn đã nói trong Quán kinh, cùng điểm chỉ dạy của Ấn Quang trưởng lão.”

 

Do đó toàn thể chư Tăng Ni thiện tín ở vùng hải đảo non Phổ Đà, đều cảm động phát tâm tự tu và hoằng dương môn Tịnh độ, để làm thỏa mãn bản hoài ứng thế của chư Phật.



Thưa các Vị,

 

Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả  hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH. 




BÀI KỆ THỨ 101

 

Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa

Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra

Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn

Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.

 

BÀI KỆ THỨ 102

 

Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình

Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình

Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới

Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.

 

 BÀI KỆ THỨ 103

 

Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê

Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !

Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa

Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.

 

 BÀI KỆ THỨ 104

 

 

Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô

Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ

Phật tử đến thăm như hỏi đạo

A Di Đà Phật lại NAM MÔ.

 

 BÀI KỆ THỨ 105

 

 

Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên

Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm

Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết

Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.

 

 BÀI KỆ THỨ 106

 

Ẩn tu suối lặng bóng chim qua

Chim nước đều như tự tại hoà

Di Lặc trao cho xem túi vải

Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!

 

 BÀI KỆ THỨ 107

 

 

Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!

Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn

Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa

Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.

 

 BÀI KỆ THỨ 108

 

Ẩn tu trì niệm tháng năm qua

Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ

Tin-tức ngày nay vừa thấy được

Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !




TỰ-CẢM



Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi ch
í không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.

Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT-NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.

Vô-Nhất Tăng.
Liên-Du – Thích Thiền-Tâm.



Đi ta chí gi chn Liên-trì,

Trn thế vinh-hư sá k gì.

Bn tám năm dài chuyên l nim,

Mng nay được thy đc A-DI.



Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

TRÚC LIÊN BỔN THẤT

CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ

Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng.

Comments

Popular posts from this blog