Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
424. MIỆC ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN
蔑怛唎曳泮
MĀTRĪYE PHAT
Thích
Đề Hoàn Nhân suất lãnh binh
Tuần
sát thiện ác các chủ tân
Trung
hiếu nhân nghĩa tăng phước huệ
Sát
đạo dâm vọng tai họa xâm.
釋提桓因率領兵
巡察善惡各主賓
忠孝仁義增福慧
殺盜淫妄災禍侵
THÍCH ĐỀ HOÀN NHƠN BẢO HỘ
Xưa kia Thích Đề Hoàn Nhơn lúc sắp chết có năm tướng
hiện : Một là áo xiêm nhơ nhớp, hai là hoa trên đầu héo, ba là thân thể hôi dơ,
bốn là dưới nách ra mồ hôi, năm là chẳng thích chỗ mình ở. Lúc đó Thiên Đế
Thích, hoặc nơi chỗ vắng vẻ thấy Sa Môn, hoặc thấy Bà La Môn, liền đi đến kính
ngưỡng như Phật. Các Sa Môn cùng Bà La Môn thấy Thiên Đế Thích đến rất vui mừng
nói rằng : Thưa Thiên Chúa ! Nay tôi quy y với ngài.
Thiên Đế biết chẳng phải Phật, nghĩ rằng : Người đó
nếu không phải là Phật thời không thể chửa trị năm tướng suy của ta.
Thiên tử theo hầu tên Bát Giá Thi tâu cùng Thiên Đế
: Vua Càn Thát Bà tên Đôn Phù Lâu có công chúa hiệu là Tu Bạt Đà, Thiên Vương nếu
ban công chúa nầy cho hạ thần, hạ thần sẽ chỉ người có thể trừ tướng suy cho
Thiên Vương.
Thiên Đế đáp rằng : Nầy Thiên Tử ! Nếu được như lời
khanh vừa tâu, công chúa Xá Chỉ, con gái của vua A Tu La Tỳ Ma Chất Đa hiện ta
đương kính ái, nếu khanh muốn ta cũng sẽ ban cho, huống là công chúa Tu Bạt Đà.
_ Tâu Thiên Vương, hiện tại có đức Phật Thế Tôn hiệu
Thích Ca Mâu Ni đương ở thành Vương Xá, Thiên Vương nếu đến cầu pháp nơi Phật
thời tướng suy chắc chắn sẽ trừ diệt.
Thiên Đế liền khiến xa giá đến núi Kỳ Xà Quật. Thiên
Đế đầu mặt đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi qua một bên bạch cùng Phật rằng : “ Thế
Tôn ! trong hàng Thiên Nhơn những gì là trói buộc ?”
Phật nói : “ Nầy Kiều Thi Ca ! Chính là xan tham và
tật đố.”
Bạch Thế Tôn ! Xan tham tật đố nhơn đâu mà sanh ?
_ Do vô minh mà sanh.
_ Bạch Thế Tôn ! Vô minh lại do đâu mà sanh ?
_ Do phóng dật mà sanh.
_ Bạch Thế Tôn ! Phóng dật lại do đâu mà sanh ?
_ Do điên đảo mà sanh.
_ Bạch Thế Tôn ! Điên đảo lại do đâu mà sanh ?
_ Do lòng nghi mà sanh.
_ Bạch Thế Tôn ! Đúng như lời Phật dạy, vì tâm tôi
nghi nên sanh điên đảo, đối với người chẳng phải Phật mà tưởng là Phật. Giờ đây
tôi được thấy Thế Tôn, lưới nghi của tôi liền trừ. Vì lưới nghi trừ nên điên đảo
cũng hết. Vì điên đảo hết nên không có tâm xan tham tâm tật đố.
Phật nói : “ Ông nói rằng không có tâm xan tham tật
đố, thời ông đã đặng quả A Na Hàm chăng ? Bậc A Na Hàm không có tâm tham. Nếu
không tâm tham sao lại vì mạng sống mà tìm đến ta. Mà bậc A Na Hàm thật chẳng cầu
sống.
_ Bạch Thế Tôn ! Người có điên đảo thời có cầu mạng
sống, người không điên đảo thời chẳng cầu mạng sống. Nay tôi thật chẳng cầu mạng
sống, tôi chỉ cầu pháp thân cùng trí huệ của Phật.
_ Nầy Kiều Thi Ca ! Người cầu pháp thân cùng trí huệ
của Phật, thời tương lai quyết định sẽ được.
Nghe lời Phật nói xong năm tướng suy của Thiên Đế liền
tiêu diệt.
Thiên Đế đứng dậy đảnh lễ rồi đi nhiễu Phật ba vòng
chắp tay cung kính bạch Phật :
“ Thế Tôn ! Nay tôi sắp chết được sống, sắp mất mạng
được mạng, lại được Phật thọ ký sẽ thành vô thượng chánh giác. Bạch Thế Tôn ! Tất
cả nhơn thiên thế nào được tăng ích ? Lại do nhơn duyên gì mà phải tổn giảm ?
_ Nầy Kiều Thi Ca do đấu tránh nên nhơn duyên tổn giảm.
Khéo tu hòa kính thời đặng tăng ích.
_Bạch Thế Tôn! Nếu do đấu tránh mà tổn giảm, từ nay
trở đi tôi chẳng cùng A Tu La đánh nhau nữa.
_ Lành thay ! lành thay ! Nầy Kiều Thi Ca chư Phật
Thế Tôn đều nói hạnh nhẫn nhục là nhơn vô thượng Bồ Đề.
Thích Đề Hoàn Nhơn lễ tạ Phật trở về Thiên cung.
KINH
ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
PHẨM
PHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI
Việt Dịch HT. Trí Tịnh
南無因陀囉耶
NAMO INDRYA
Nhất thiết thiện thần y triệu lệnh
Tứ phương kết giới thiên biến hóa
Long vương hộ vệ tại hậu tiền.
Bảo-LoaThủ Nhãn Ấn Pháp
KINH
PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG
ĐÀ-RA-NI
Hán dịch: Nước Kế Tân, sa môn Phật Đà Ba Lỵ
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
PHẦN BIỆT-TỰ
Bấy giờ đức Thế Tôn đang được bốn chúng vây quanh, cung kính cúng dường, một lòng chiêm ngưỡng, cầu nghe pháp yếu.
Khi ấy, tại cõi
trời Đao Lợi, có một vị thiên tử tên là Thiện Trụ, ngự tại cung
báu lớn, đang cùng với các thiên nữ dự cuộc âm nhạc ca
múa vui đùa hưởng lạc. Lúc đó, ở thiên giới vào khoảng cuối
đêm, bỗng nhiên giữa hư không có tiếng gọi bảo: "Thiện
Trụ thiên tử! Bảy hôm nữa, ông sẽ hết phước trời, xả báo thân, đọa xuống
cõi Diêm Phù Đề, 7 lần làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ uế. Kế đó lại đọa
vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều kiếp mới được
làm người. Tuy được thân người, nhưng lại đen lùn, thô xấu, mù cả đôi mắt, các
căn không đủ, hơi miệng thường hôi hám, nghèo khó hèn hạ, hằng thiếu ăn
mặc, mọi người đều gớm ghét, lánh xa.
Thiện Trụ thiên tử nghe lời ấy rồi, kinh hoàng tột độ, lông
tóc đều dựng đứng, ôm lòng sầu muộn, ông vội đem hương, hoa cùng các thứ cúng
dường, đến chỗ Thiên đế quì xuống, dâng lễ, than khóc thuật lại việc
trên, và thưa: "Nay tôi tâm tư bối rối, mê loạn. Không biết phải làm
thế nào? Cúi xin Thiên Đế xót thương, cứu vớt tôi ra khỏi vòng khổ độc!" Thích
Đề Hoàn Nhơn nghe xong, rất kinh ngạc, tự suy nghĩ: "Thiện
Trụ Thiên Tử đời trước tu phước gì, được sanh lên cõi
trời hưởng sự vui thắng diệu nhiều năm? Lại kiếp xưa tạo nghiệp nhân chi
mà sau khi hết thiên phước, phải chịu 7 lần làm cầm thú, rồi đọa vào địa
ngục, khi được làm thân người, đôi mắt mù lòa, thọ đủ điều xấu ác?"
Nghĩ như thế rồi, liền nhiếp tâm vào định, dùng thiên nhãn xem:
Thấy Thiện Trụ thiên tử ở cõi trời mạng chung, liền đọa làm
thân heo, hết thân heo thọ thân chó, hết thân chó thọ thân chồn, hết thân chồn
thọ thân khỉ, hết thân khỉ thọ thân rắn độc, hết thân rắn thọ thân kên
kên, hết thân kên kên thọ thân chim quạ. Trong 7 kiếp làm cầm thú ấy,
thường ăn những đồ nhơ uế. Khi thấy biết như thế, ngài cũng lo lắng đau
xót giùm cho Thiện Trụ thiên tử. Thiên đế lại suy nghĩ: Thiên
nhãn của ta chỉ thấy biết một ít phần, không thể hiểu được những nghiệp
nhân sâu xa. Duy đức Như Lai là bậc Chánh Biến Tri, mới có
thể thấu suốt tất cả nhân quả thiện, ác. Duy đức Thế Tôn là
đấng Đại Từ, mới có thể cứu vớt Thiện Trụ thiên tử khỏi vòng khổ
độc. Ta nên đến cầu thỉnh Như Lai về việc này!" Nghĩ đoạn,
ngài liền suất lãnh Thiện Trụ thiên tử cùng chư thiên, đem
theo các thứ tràng hoa, huơng lạ, anh lạc, thiên y, bay xuống
vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc.
Bấy giờ ở cõi nhân gian, thời khắc vào khoảng đầu
hôm, nhằm lúc chư Bồ Tát, thanh văn, thiên long bát bộ, tứ
chúng như trên đang vân tập. Khi đến nơi, Thiên đế hướng dẫn Thiện
Trụ và thiên chúng đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh 7
vòng, dâng hiến lễ cúng duờng. Pháp sự đã xong, Thích Đề Hoàn
Nhơn quì trước Như Lai bạch lại việc trên, và thưa thỉnh rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Thiện Trụ thiên tử đời trước tu phước chi,
mà hưởng sự vui nơi cõi trời trải nhiều thời gian? Lại kiếp xưa tạo
nhân gì, sau khi hết phước phải đọa làm thân cầm thú 7 phen, ăn đồ bất
tịnh, rồi thọ sự khổ nơi địa ngục, sự hèn xấu nơi cõi người? Và
do phước nhân nào, cảm được giữa hư không có tiếng mách bảo?
Xin đức Như Lai vì chúng con và đại hội mà nói rõ nhân
duyên, lại cúi xin đấng Thiên Nhơn Sư mở lượng từ bi, cứu vớt
cho Thiện Trụ thiên tử được thoát vòng khổ ách".
PHẦN CHÁNH-TÔNG
Khi ấy, đức Như
Lai mỉm cười, từ nơi đảnh môn, phóng ánh sáng ngũ sắc rộng lớn,
soi khắp 10 phương cõi Phật. Quang minh ấy ánh chiếu lẫn nhau,
rồi uyển chuyển quay về nhiễu quanh bên hữu Phật ba vòng, lại trở vào
miệng đấng Điều Ngự. Đức Thế Tôn thu nhiếp quang
minh xong, bảo trời Đế Thích rằng:
"Lành
thay, thiện nam tử! Ông khéo vì Thiện Trụ thiên
tử và đại chúng, hỏi nhân duyên thiện ác tiền sanh.
Lại hay vì chúng hữu tình hiện tại và đời sau, mà thưa
thỉnh ta nói pháp môn cứu khổ. Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông giải
thuyết rành rẽ:
- Này thiện nam tử! Cách vô lượng kiếp về trước,
có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn. Đức Phật ấy sau khi hóa duyên đã mãn,
vào Niết Bàn.
Trong thời tượng
pháp của ngài, có một quốc gia tên Ba La Nại, trong nước đó
có người Bà La Môn nghèo, chỉ sanh được một con trai rồi qua đời sớm.
Cậu bé ở với mẹ đến khi khôn lớn, được giao cho việc nông tác ngoài đồng. Bà mẹ
ở nhà, tảo tần lo thức ăn, mỗi ngày đem ra ruộng cho con. Một hôm, cơm
nước đưa đến trễ, đứa con đói khát, sanh lòng hờn giận, dùng
lời ác độc mắng rằng:
"Mẹ tôi còn thua
loài súc sanh! Tôi thấy mấy con: heo, chó, chồn, khỉ, rắn, kên kên, quạ, còn
biết thương lo cho con của nó. Tại sao bà để cho tôi đói khát mà
không đem cơm nước đến?"
Do lòng đợi
chờ hờn giận, đứa con nói như thế ba lần. Giây lát bà mẹ với dáng
điệu vội vã đem cơm nước tới, và nói nhiều lời an ủi khiến
cho con vui mừng hết cơn buồn giận. Đứa con vừa ngồi xuống sắp dùng
cơm, bỗng thấy giữa hư không có vị Bích Chi Phật, hình
tướng sa môn, bay từ phương Nam qua phương bắc. Người con thấy rồi, sanh
lòng kính ngưỡng, đứng lên chắp tay cúi đầu đảnh lễ, thỉnh
vị Bích Chi Phật giáng lâm.
Vị Bích-Chi
Phật nhận lời thỉnh, từ từ đáp xuống. Đứa con vui mừng, trải tranh
trắng làm tòa ngồi, dâng hiến hoa sạch đẹp, giảm phần ăn của mình,
đem cúng dường vị Sa môn. Sau khi thọ thực xong, Bích Chi
Phật lại vì nói pháp yếu khiến cho được vui mừng.
Về sau người con xuất gia, chư tăng cử cho làm chức Tri
Sự. Lúc ấy có người Bà La Môn xây cất tăng xá vừa xong,
ngày khánh thành khách tăng hội đến, lại có thí chủ đem nhiều tô
du và sữa đặc cúng dường. Ông Tri Sự hiềm khách tăng làm
phiền rộn, nên không đem tô du và sữa ra thết đãi. Mấy vị khách tăng
hỏi:
"Những thức
ăn đó là của đàn việt cúng dường hiện tiền tăng, sao
không thấy dọn ra?"
Ông Tri
Sự tánh nóng vội, liền cả tiếng mắng rằng:
"Bộ mấy ông
đui mù hết sao? Có tô du và sữa đâu mà bảo tôi cất giấu? Nếu muốn đòi
thêm, chỉ có phẩn và nước tiểu cho các ông ăn mà thôi!"
Đức Phật bảo Đế Thích:
“-Đứa con của người Bà La môn nghèo đó là Thiện Trụ thiên
tử hiện nay. Do kiếp trước hờn giận, dùng lời ác gọi 7 tên
loài cầm thú mắng mẹ, nên phải chịu 7 phen làm cầm thú. Bởi khi
làm Tri Sự thốt ra những lời nhơ uế mắng chư tăng,
nên nghiệp cảm thường ăn đồ bất tịnh. Do bỏn xẻn giữ
riêng thức ăn của hiện tiền tăng nên bị quả
báo địa ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp người. Bởi
mắng chư tăng là đui mù nên bảy trăm đời phải bị mù đôi mắt, sống
trong cảnh tối tăm chịu nhiều khổ não. Nên biết những tội
nghiệp như thế, đã có nhân, tất phải trả quả, ảnh
hưởng không tiêu mất.
-Lại nữa Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử được hưởng sự vui thắng diệu
ở cõi trời, là do kiếp trước trải tòa, dâng hoa, cúng
dường thức ăn cho vị Bích Chi Phật, và nhờ sức ảnh
hưởng của sự nghe chánh pháp. Lại do đời trước chắp
tay ngửa lên hư không, hết lòng kính thỉnh, cúi
đầu đảnh lễ vị Bích Chi Phật, bởi công đức ấy nên được
nghe giữa hư không có tiếng mách bảo cho biết trước. Đó là
tiếng vị thần giữ cung điện của Thiện Trụ thiên tử vậy!
Khi ấy, Thiện Trụ thiên tử nghe lời Phật dạy, biết nghiệp mình
đều có túc nhân, hết sức ăn năn tự trách. Ông gieo
mình đảnh lễ trước Phật, tỏ bày tội lỗi, cầu
xin sám hối, thương khóc, sa nước mắt như mưa, huyết lệ rơi ứ đọng nơi
chiếc khăn trong giỏ đựng hoa, chết ngất hồi lâu mới tỉnh lại.
Đức Phật bảo Đế Thích và Thiện Trụ thiên tử:
- Trong 10 nghiệp ác, khẩu nghiệp rất mãnh liệt, phải biết lời
ác còn quá hơn lửa dữ. Lửa dữ chỉ đốt tiêu tài sản của
báu ở thế gian. Lửa giận ác khẩu chẳng những đốt
hết Thất thánh tài (4) và tất cả công đức xuất
thế mà còn chiêu cảm ác báo về sau. Như Thiện
Trụ chỉ vì nóng giận mắng mẹ và chư tăng, mà tổn bớt phước trời, phải
chịu thân cầm thú và địa ngục.
Cho nên, đối với cha mẹ và chư tăng, lẽ ưng tôn
trọng cung kính cúng dường, dùng lời dịu dàng khen ngợi,
thường nghĩ đến ân đức, chớ không nên khinh hủy. Lòng từ ái giữa
trần gian chỉ có cha mẹ, ruộng phước trong ba
đời không chi hơn chúng tăng. Các bậc chân tăng hiền thánh,
nếu cúng dường thì công đức không mất. Như tiến thêm,
muốn cầu pháp xuất thế, lại có thể thành đạo. Đâu nên đối
với chúng tăng vội thốt lời khinh hủy!
Còn cha
mẹ công sanh dưỡng rất khó nhọc, 10 tháng cưu mang khổ nặng, 3
năm bú sữa, mớm cơm. Trải đủ sự lo lắng gian lao, nuôi con khôn lớn,
dạy dỗ, cho học hành, mong con được thành lập, tài đức hơn
người. Nếu con xuất gia, lại mong cho con đắc đạo, thoát vòng
sanh tử. Ân niệm ấy cao rộng như biển trời, khó đền trả. Vì thế, ta đã
bảo A Nan:
-Nếu có người vai bên
trái cõng cha, vai bên mặt cõng mẹ, đi quanh núi Tu Di trăm ngàn
vòng, huyết chảy ngập 2 bàn chân, còn chưa thể báo công ơn sanh
dưỡng, huống chi lại khởi niệm hờn giận, buông lời khinh mắng ư!
- Này Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử nay do thấy ta, chí
tâm sám hối, nên đạo nhãn trong sáng, tội cũng trừ diệt.”
Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng:
"-Ông nên chớ quá
lo buồn thương khóc. Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát
khỏi vòng khổ ách. Môn đà ra ni đây, vô lượng hằng
sa chư Phật đời quá khứ đã nói, ta nay cũng sẽ diễn nói. Trong
các thần chú về Phật Đảnh, môn đà ra ni này rất tối tôn tối
thắng, hay trừ tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồi của tất
cả chúng sanh!"
Thích Đề Hoàn Nhơn nghe Phật nói rất vui mừng, một lòng khát
ngưỡng, thưa rằng:
"-Bạch đức Thế Tôn!
Cúi xin Như Lai thương nghĩ đến Thiện Trụ và bọn chúng con,
cũng vì chúng sanh đời mạt pháp về sau, tuyên
thuyết môn Phật Đảnh Đà Ra Ni. Chúng con sẽ tuân
hành và nguyện cho tất cả các loài hữu tình đều thoát
khỏi sự khổ tam đồ Bát nạn (5)!"
Bấy giờ đức Như Lai vì Thiên Đế, Thiện Trụ thiên tử, và 4
bộ chúng, và nghĩ thương chúng sanh đời mạt pháp về sau,
dùng giọng phạm âm trong sáng, thanh diệu hòa nhã như
tiếng chim Ca Lăng Tần Già, thuyết chú rằng:
PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG ĐÀ-RA-NI
Nam-mô ba ga pha tê. Sạt
hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát
đi da tha !
Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà đa. Vi suýt
đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga
ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá
ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn
đa ra, ba na.
Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà đa, suýt đà
đa. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ
sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt
hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi
bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi
sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca
da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra,
đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma
dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ
ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi,
vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.
Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma
ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt
đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ
bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na
ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa
di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi
ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt
đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa,
tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.
Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da,
vi bút đi đa. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da.
Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà đa. Vi suýt đà da, vi suýt đà da.
Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ,
tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá
na. Đi sắc si tê. Sóa ha .
Thuyết chú
xong, đức Phật bảo:
“- Này Thiên đế! Môn Như Lai Quán Đảnh Thanh Tịnh Chư
Thú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni này tám mươi tám câu
chi trăm ngàn hằng sa chư Phật đã tuyên thuyết, và nghiêm
mật thủ hộ, tùy hỉ ngợi khen. Tất cả Như Lai đều
đồng ấn khả.
Nếu có Tì kheo, tì kheo
ni, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào thọ
trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy, những tội ngũ
nghịch, thập ác trong trăm ngàn muôn kiếp đều được tiêu diệt,
sẽ chứng quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Kẻ ấy trong hiện
tại sẽ được túc mạng trí, rồi sanh từ cõi trời này
đến cõi trời khác, từ cõi Phật này đến cõi
Phật khác.
Kẻ ấy sẽ được
chư Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế
Chí xoa đầu thọ ký, thường ở nơi đạo tràng, nghe hiểu
và thọ trì chánh pháp. Kẻ ấy 3 nghiệp thân, ngữ, ý hằng
thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ dứt trừ, được những xúc
giác nhẹ lành, thọ mạng tăng thêm, không bị hoạnh tử.
Kẻ ấy sẽ được chư
thiên thần hộ vệ, chư Bồ Tát từ ái, chư Phật hệ niệm.
Người thọ trì chú này sẽ đến cõi Địa ngục, ngạ
quỷ, Diêm Ma vương đọc tụng, các tội phạm nơi đó
đều được giải thoát, cảnh giới trống rỗng, các cung trời, cung điện
BồTát, cung điện cõi Phật đều mở cửa rước người thọ
trì vào.
- Tại sao thế? Bởi môn đà ra ni này hay trừ sạch tội ngũ nghịch, thập
ác của chúng sanh.
-Hay cứu tất cả
sự khổ nạn trong cảnh Diêm Ma, bàng sanh, ngạ
quỷ, địa ngục, hay độ thoát tất cả chúng sanh nghiệp
dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu thọ, xấu
xa, câm ngọng, đui điếc.
-Hay cứu vớt các
loại A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Phú Đơn Na (6), Ca
Tra Phú Đơn Na (7), các thân quỷ thần…
-Cho
đến hay độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồi
muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy tùy phận sẽ được sanh lên
các cảnh giới an lành, và lần lượt đều được chứng
quả giải thoát.
-Này Thiên Đế! Nếu có người thọ trì chú này, từ kiếp hiện
tại trở về sau, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo, thường sanh
trong dòng quý tộc ở cõi người, hoặc sanh lên cõi
trời, cho đến được cùng 10 phương chư Phật ở một chỗ, cùng
chư Bồ Tát làm bạn lành, và kết cuộc sẽ chứng
quả Vô Thượng Đẳng Giác.
-Này Thiên Đế! Môn Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni của ta đây có
đủ thần lực uy thế, công đức rộng lớn như mặt
trời kiết tường, như châu ma ni trong sạch sáng suốt, không
bợn nhơ, tùy ở chỗ nào phóng ánh quang minh làm sáng sạch nơi đó. Lại
nữa, như 7 báu thù thắng ở thế gian, tất cả hàng vua quan dân
chúng đều quý trọng ưa thích, nhìn không chán. Môn đà ra ni
này cũng thế, nếu thọ trì đọc tụng, biên chép, hoặc cúng
dường, kẻ ấy sẽ được vô lượng công đức, tất cả thiên, long
bát bộ đều kính ưa, quý trọng.
-Này Thiên Đế! Hàng vua quan tứ chúng nếu biên chép đà ra ni này để
trong tháp 7 báu, nơi bảo tòa sư tử, nơi tháp ngã tư đường, hoặc nơi
đầu phướn cao, lại dùng các thứ hoa, hương, anh lạc, y
phục, thức ăn uống, thuốc men cúng dường, kẻ ấy công đức vô
lượng vô biên, phước trí không thể tính kể.
Kẻ ấy là đích tử của
Phật, là Bồ Tát Ma Ha Tát, vì cứu vớt được vô lượng chúng
sanh đi qua đi lại nơi đó. Nếu có chúng sanh nào phạm
tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, các trọng giới và tất cả tội
nặng, ưng đọa tam đồ thọ khổ mà đi ngang qua tháp hoặc phướn có để đà
ra ni này, được một điểm bụi hay một chút gió từ tháp phướn ấy dính nhiễm đến
thân mình, hoặc được bóng tháp phướn che thì tất cả tội nặng đều tiêu trừ,
sanh về cõi trời hưởng sự vui thắng diệu, hoặc tùy
duyên sanh về Tịnh Độ.
Kẻ nào thường thọ trì đà ra ni này khi sắp tụng niệm dùng
nước rửa tay, nước đó rơi xuống đất rưới nhằm các loài trùng kiến, các vật loại
ấy đều được nhờ ảnh hưởng công đức sanh lên cõi trời. Cho
nên các hàng Tì Kheo, Tì Kheo Ni, thiện nam, tín
nữ nếu trai giới thanh tịnh, sáu thời thọ trì đà ra ni
này, thì các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác cùng tất cả các
tội nặng trong ba đời thảy đều được tiêu diệt, được chư
Phật Bồ Tát xoa đầu thọ ký.
Bấy giờ đã quá nửa đêm, Diêm Ma La Vương, Hộ Thế Tứ Thiên
Vương, Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu
Suất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc thiên vương, Tha Hóa Tự Tại
Thiên vương, Phạm Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương... suất
lãnh quyến thuộc trăm ngàn muôn ức, đem theo hương, hoa và
các thứ trang nghiêm, đến nhiễu quanh bên hữu Phật 7 vòng, đảnh
lễ nơi chân, rồi hiến dâng thức cúng dường. Lễ kính đã
xong, lại thưa thỉnh rằng:
“- Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nghe Như Lai diễn
thuyết môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni nên đến đây xin
thỉnh thọ và tùy thuận lời dạy mà thủ hộ. Cúi xin
đấng Thiên Nhơn Sư vì chúng con mà nói các pháp
yếu về thần chú này, để cho sự thọ trì của chúng con
được thông suốt và thành tựu.”
Đức Phật bảo vua Diêm Ma La và các vị thiên vương:
“- Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thuyết:
* Nếu có chúng sanh nào bị khổ nạn, tội chướng cực
nặng, không ai cứu hộ, nên chọn ngày trăng sáng, tắm gội, mặc y
phục sạch sẽ, thọ bát quan trai giới, quỳ trước tượng
Phật tụng đà ra ni này 1.080 biến thì tất cả tội nghiệp, chướng
nạn đều tiêu diệt. Kẻ ấy sẽ được thanh tịnh giải thoát,
được môn Tổng Trì Đà Ra Ni, biện tài vô ngại.
* Nếu kẻ nào tuy chưa trì tụng, mà chỉ nghe âm thanh của đà ra ni này
lọt vào tai, tức liền thành hạt giống Phật. Ví như một
chút kim cang rớt xuống đất, tất lần lượt xuyên lọt đến
nơi bản tế mới dừng, đất tuy dày không thể làm trở ngại. Thần
chú này cũng thế, khi đã lọt vào tai, liền huân tập khiến
cho lần lần thành quả chánh giác, phiền não tuy nặng cũng
không thể ngăn che. Dù kẻ ấy bị đọa vào cõi Địa Ngục, Ngạ
quỉ, bàng sanh cũng không bị nghiệp báo làm cho hạt
giống đó tiêu mất, mà còn nương sức thần chú lần lượt tiến
tu cho đến khi thành Phật.
* Nếu chúng sanh nào một phen nghe được Đà Ra Ni này, qua
kiếp hiện tại sẽ không còn bị các tật bịnh và các sự khổ não,
cũng không còn thọ thân bào thai, tùy theo chỗ hóa
sanh hiện nơi hoa sen. Từ đó về sau, ngũ nhãn lần
lần thanh tịnh, được túc mạng trí, kiết sử tiêu trừ,
sẽ chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu có kẻ nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến đà ra ni
này vào một nắm đất hoặc cát, rải lên thi hài, kẻ ấy sẽ được sanh về
10 phương Tịnh Độ. Như người chết thần thức đã bị đọa
vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, khi đất cát ấy dính
vào hài cốt, cũng được thoát khỏi ác thú, sanh lên cõi
trời.
* Nếu chúng sanh nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến, ưng
tiêu được sự cúng dường rộng lớn của tất cả thế gian, khi
xả báo thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc, kẻ nào thường
niệm tụng sẽ được tăng thọ mạng, hưởng sự vui thù thắng,
tương lai sanh về 10 phương Tịnh Độ, nghe pháp mầu,
được thọ ký, ánh sáng nơi thân chiếu tất cả cõi Phật, và
chứng Đại Niết Bàn.
* Nếu muốn được oai lực tự tại, hành giả dùng các thứ bột như
bột nếp, bột gạo v.v.. nắn thành hình người để 8 phương
hướng nơi đàn tràng, ngày đêm đối tám phương mà tụng chú, tất cả
sẽ được như ý.
* Nếu nước lụt dâng, hướng về phương đó tụng chân ngôn này 108
biến cầu nguyện, thì nước sẽ rút lui.
* Nếu bị nạn vua, nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu
thiệt, tụng chú này 21 biến vào năm thứ nước thơm, đem rưới trên
đảnh Phật, các nạn sẽ tiêu diệt.
* Nếu chúng sanh nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn ngày
trăng sáng, trai giới, tắm gội, mặc y phục sạch, tụng
chú này đủ 1.080 biến, sẽ được trường thọ, tất cả tội
chướng đều trừ diệt.
* Nếu có người tụng chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ
loài cầm thú nào, thì sanh loại ấy kiếp đó không còn thọ
thân cầm thú, dù nó có nghiệp nặng sẽ bị đọa vào địa ngục,
cũng được thoát ly.
* Nếu kẻ nào bị bịnh trầm trọng, chịu nhiều đau khổ, được nghe đà ra
ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội chướng tiêu diệt. Cho
đến các chúng sanh trong bốn loài nghe được chú
này đều xả bịnh khổ, lìa thân bào thai, hóa
sanh nơi hoa sen, tùy theo chỗ sanh, nhớ biết đời trước
không quên mất.
* Nếu có chúng sanh nào vừa mới khôn lớn, đã tạo các thứ tội tứ
trọng, ngũ nghịch, thập ác, cho đến lúc tuổi già,
tự suy nghĩ biết mình do nghiệp ác này sau
khi mãn phần sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ
lớn trải qua nhiều kiếp, rồi xoay vần luân hồi trong 3
đường ác không ai cứu vớt. Người ấy nên chọn ngày rằm, tắm gội mặc y
phục tinh khiết, dùng cái bát bằng vàng, bạc hoặc đồng, lượng chứa
ước một thăng, đựng nước trong sạch để trước tượng
Phật, thọ giới Bồ Tát, trì trai thanh tịnh. Nơi đàn
tràng, mình đứng ở phương Đông hướng về tượng Phật ở phương
Tây, đảnh lễ chí thành sám hối. Rồi tụng đà ra ni này 1.080 biến
giữa chừng không gián đoạn, kế đó dùng nước ấy rưới bốn phương và trên
dưới, nguyện cho tất cả đồng được thanh tịnh. Làm phép này xong, tất
cả tội chướng đều được tiêu diệt, thoát khỏi nghiệp
báo địa ngục tam đồ, vua Diêm Ma La buông tha, thần Tư Mạng
vui đẹp, không sanh giận trách, trở lại chắp tay cung
kính, tùy hỉ ngợi khen công đức.
* Nếu muốn cứu độ người tội nặng, nên chọn ngày rằm, tụng
chú này vào mật hoặc sữa 1.080 biến, rồi cho người đó ăn. Làm như thế,
đương nhơn sẽ tiêu trừ tội chướng sanh về cõi lành, lần
lượt tiến tu, chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu tụng 21 biến chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng,
rồi đem dùng có thể trừ bịnh đau răng, được mạnh khỏe, thông
minh, trường thọ.
* Nếu muốn cứu độ tội khổ của loài súc sanh, nên gia
trì chú này vào cát hoặc đất vàng 21 biến, rồi rải trên mình chúng và bốn
phương, tội chướng của chúng nó sẽ tiêu diệt.
* Nếu có chúng sanh nào muốn được phước đức đầy đủ,
muốn cầu tài bảo xứng ý, muốn cứu hộ mình và người nên khởi
lòng lành, mỗi ngày phát nguyện sám hối, đối trước tượng
Phật, kiết ấn tụng chú này bảy biến, tâm không tán
loạn, mắt nhìn tượng Phật không di động, rồi đem công
đức ấy hồi thí cho tất cả chúng sanh. Tác pháp và
có tâm lành như thế, quyết định sẽ được như nguyện, tăng phước
lộc trong hiện tại, cho đến cả những đời sau.
* Nếu hành giả ở nơi đàn tràng mỗi ngày ba thời, mỗi
thời tụng chú này 21 biến gia trì vào chén nước sạch, rồi
dùng tâm trân trọng bưng chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu
trừ các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải mọi oán kết, tiếng nói thanh
diệu, biện tài thông suốt, mỗi đời thường được Túc Mạng Thông,
nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem chén nước ấy rưới trong phòng nhà, cho
đến chỗ chuồng trâu, ngựa, thì nơi đó sẽ được oai lực của chân
ngôn giữ gìn an ổn, trừ các nạn: la sát, rắn, rồng. Như đem chén
nước ấy, miệng tụng chú rưới trên đảnh người bịnh và cho bịnh nhơn
uống, các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.
* Nếu muốn tiêu trừ các tai chướng, nên dùng vải lụa vụn năm sắc, kết
làm cây phất trần. Kế đó tụng chú nơi cây phất, quét bụi
nơi tượng Phật và kinh. Thường làm như thế, chướng nạn của
mình sẽ tiêu, mà tội nghiệp của chúng sanh cũng
được trừ diệt.
* Nếu bị nhiều khẩu thiệt, tai tiếng phát khởi, nên dùng châu sa hòa
với bạch mật, hoặc đường cát trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem
thoa vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế khẩu thiệt, tai
tiếng sẽ tiêu trừ.
* Nếu vợ chồng chán ghét nhau, muốn được hòa thuận, tụng
chú vào vải hay lụa 21 biến, đem may áo cho chồng hoặc vợ mặc, làm như
thế, vợ chồng sẽ hòa thuận.
* Nếu người nam hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu
đắm, quyến luyến không tha, nên giữ chánh
niệm vừa tụng chú vừa xoa khắp mình nạn nhân, kế đó lấy tay vỗ
vào thân, ma quỉ liền bỏ chạy.
* Nếu người nữ không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch, tụng
chú vào đó 108 biến, rồi đem cúng dường hiện tiền tăng, tất
sẽ được như ý.
* Nếu chỗ ở có quỷ thần dữ khuấy rối, nên tụng
chú vào thức ăn 21 biến rồi đem cúng thí cho ăn. Trong khi ấy
lại nói: "Nay tôi cúng thí cho các vị, như không làm tổn
hại chúng sanh thì tùy ý ở lại, nếu làm tổn
hại thì phải mau đi nơi khác". Nếu quỷ thần hung hãn
không nghe lời, nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú vào
đó 21 biến rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế, các quỷ thần dữ phải
chạy ra khỏi địa giới.
* Nếu có bệnh nhân bị tinh mị dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm
chú vào mặt người bịnh mà tụng đà ra ni này, tinh mị sẽ xuất ra.
* Nếu có quỷ La Sát hoặc các loài quỷ dữ vào quốc giới gây đau bịnh,
làm khủng bố và não loạn dân chúng, nên xưng
niệm Tam Bảo, ngày đêm tụng trì chú này, kiết ấn Phật
Đảnh Tôn Thắng rải khắp bốn phương, thì các tai
nạn đều tiêu diệt, làm như thế, cũng cứu được chúng
sanh thọ khổ ở tam đồ.
* Nếu muốn thí nước cho loài ngạ quỷ, tụng chú này vào nước sạch
7 biến, rồi rải khắp 4 phương, tâm tưởng miệng nói, cầu cho chúng được thọ
dụng, thì các ngạ quỷ sẽ được uống nước cam lộ.
* Nếu người nào buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường kiết
ấn tụng chú này 21 biến, an trí tượng Phật nơi chỗ
tinh sạch kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.
* Nếu người nào mỗi ngày 3 thời, mỗi thời tụng chú này 21
biến, cung kính cúng dường, chí tâm thọ trì, vì người khác
giải nói, người ấy sẽ được an vui, sống lâu, không bịnh, phát sanh trí
huệ được túc mạng thông, khi lâm chung như ve thoát xác,
liền được sanh về thế giới Cực Lạc, tai không còn nghe tiếng địa
ngục, huống chi bị sa đọa. Kẻ ấy sẽ tuần tự tiến trên đường đạo
quả cho đến khi thành Phật.
Đức Phật bảo vua Diễm La và các vị thiên vương:
- Nếu chúng sanh nào muốn lập đàn trì đà ra ni này, nên dùng đất vàng
trộn với nước thơm mà bôi trên mặt đàn, đàn tràng vuông vức
mỗi bề rộng 4 cánh tay, dùng dây lụa năm sắc bao quanh 3 lớp, tụng
chú vào hạt cải trắng, hoặc nước thơm rải bốn bên. Bốn góc đàn
để bốn bình nước tinh sạch, các bình nước lượng lớn nhỏ đều phải đồng nhau. Giữa
đàn rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, thắp các đèn dầu có chất thơm.
Trước tượng Phật, dùng những đồ đựng đẹp sạch, đựng các thức
ăn như cơm trắng, nếp, sữa, đường, hoặc các thứ hoa quả cúng
dường. Hành giả nên mặc y phục sạch, giữ giới bồ
tát, không nên ăn các thứ ăn có sắc đen. Mỗi thời kiết ấn trì
chú này 108 biến, nếu có thể 1.080 biến. Trì tụng như thế sẽ
được tiêu các tội chướng, tăng trưởng phước đức căn lành,
sanh về các cõi Tịnh Độ, và được thọ ký thành Phật.
Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai
ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn
thành.
Khi kiết ấn này tụng chú 108 biến, tức là đã cúng
dường thừa sự 88 cu chi hằng hà sa na do tha trăm ngàn
chư Phật, được chư Phật khen ngợi, xưng là Phật tử.
Nếu người nào mỗi ngày kiết ấn, tụng chú này 108 biến sẽ được 10
phương chư Phật thọ ký, quyết định không còn nghi. Như mỗi
ngày kiết ấn tụng được 1080 biến, kẻ ấy sẽ được thân kim
cang bất hoại, mau thành đạo quả.
Hành giả nào mỗi ngày thường trì chú này, rồi kiết
ấn đối 4 phương, mỗi phương tụng chú một biến, rải một lượt sẽ
được tất cả thiên, long, quỷ thần cung kính ủng hộ, nhan
sắc tươi đẹp, sự cần dùng tùy niệm sẽ được chư thần xui cho
đem đến, phước đức vô lượng, công đức vô biên, chư Phật ngợi
khen, tùy ý sanh về 10 phương Tịnh Độ.
Tóm lại, công lực của Tôn Thắng Đà Ra Ni vô cùng, có
thể tùy nguyện ứng dụng, không thể tả xiết!
Đức Phật bảo thiên đế và đại chúng:
- Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni đây trong thời mạt
pháp nếu có hàng vua quan tứ chúng, y đúng pháp thức lập đàn thọ
trì và cúng dường, đó gọi là tu Bố Thí độ. Khi lập đàn tu
hành, giữ ba nghiệp thanh tịnh, không phiền não giận hờn,
là trì giới độ và nhẫn nhục độ, mỗi ngày trì
niệm không gián đoạn biếng trễ là tinh tấn độ. Chuyên y
theo pháp tắc, một lòng không loạn là thiền định độ. Bố
thí đàn tràng đúng pháp, thông hiểu phép thọ trì, khéo
lượng chừng độ, biết việc nên làm hoặc không nên làm là Bát Nhã độ.
- Này Thiên Đế và đại chúng! Nếu y theo lời dạy
mà kiến lập pháp sự, tức sẽ đầy đủ 6 pháp ba la mật. Các ông nên
xoay vần khai thị, khiến cho chúng sanh được nhiều lợi
ích, chứng quả bồ đề!
Khi đức Phật nói pháp môn này xong, thiên
đế, Thiện Trụ và chư thiên lãnh giáo trở về thiên
cung. Thiện Trụ thiên tử y theo lời dạy mà thọ trì mãn
7 ngày, dùng thiên nhãn quán sát, tự thấy tội báo của mình
đều tiêu trừ, phuớc thọ ở cõi trời càng tăng thêm vô lượng.
Ông vui mừng khấp khởi, cả tiếng khen ngợi rằng: "Kỳ diệu thay Phật
Đà! Kỳ diệu thay Đạt Mạ! Kỳ diệu thay Tăng Già! Kỳ
diệu thay sức chú ấn Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni,
hay trừ diệt tất cả khổ ách, khiến cho tôi thoát
khỏi các ác báo như thế!"
Liền đó ông đến trình bạch lại việc ấy với Thiên Đế, thỉnh ngài
cùng thiên chúng xuống cõi Diêm Phù tạ
ơn Phật. Thiên Đế suất lãnh Thiện Trụ và hàng tùy
thuộc, đem các thứ hương, hoa, phướn, lọng, y phục, và anh
lạc quý đẹp, ngồi xe báu bay xuống vườn Thệ Đa Lâm, đảnh
lễ cúng dường Phật. Hành lễ xong lại chắp tay, đi
nhiễu quanh Như Lai trăm ngàn vòng, rồi đứng qua một bên, dùng các
lời kệ ca ngợi công đức của đức Thế Tôn.
Bấy giờ đức Như Lai đưa cánh tay sắc vàng, xoa đầu Thiện Trụ
thiên tử, dùng tiếng hòa nhã nói những lời pháp yếu và thọ
cho bồ đề ký.
Đức Phật dạy rằng:
"-Kinh này tên
là: TỊNH-NHỨT-THIẾT ÁC-ĐẠO,
PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG ĐÀ-RA-NI.
Các ông nên thọ trì.”
(4) Thất thánh tài: lòng tin, giới hạnh, sự nghe pháp, hổ với bên ngoài, tự thẹn bên trong, xả bỏ, trí huệ.
(5) Bát nạn:
1. địa
ngục
2. Ngạ
quỷ
3. bàng
sanh
4. câm
ngọng, đui điếc
5. Sanh
trước Phật hay sau Phật (vào thời không có Phật pháp)
6. Sanh Bắc
Cu Lư Châu
7. Sanh Vô
Tưởng thiên
8. Thế
Trí Biện Thông.
(6) Phú
Đơn Na: dịch xú ngạ quỷ, thường làm bịnh nóng.
(7) Ca
Tra Phú Đơn Na: dịch là Kỳ xú quỉ, thường làm bịnh kêu khóc
và gây tai nạn.
Hai loài quỉ này thân hình rất xấu xa, hôi hám.
KINH
PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG
ĐÀ-RA-NI
Comments
Post a Comment