Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
402. MA ĐỘ YẾT RA
摩度羯囉
MADHU KARA
Kim
Cang Tạng Vương hộ Phật thành
Trì
xử kình sơn hiển uy linh
Thưởng
thiện phạt ác hưng chánh giáo
Bàng
môn tả đạo tất độn hình.
金剛藏王護佛城
持杵擎山顯威靈
賞善罰惡興正教
旁門左道悉遁形
UM! MA ĐỘ YẾT RA.
KIM CANG TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT BẢO HỘ
Kinh văn:
A Nan, nên
biết chú này thường có tám mươi bốn nghìn na do tha hằng sa câu chi chủng tộc
Kim Cang Tạng vương Bồ tát. Mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc,
đêm ngày theo hầu.
Giảng giải:
Na do tha là một trong mười bốn số lớn nhất trong ngôn ngữ Sanskrit. Có người nói na do tha bằng một tỉ tỉ, người khác cho là mười tỉ tỉ. Nhìn chung đó là con số rất lớn. Hằng sa câu chi tương đương một tỉ tỉ. Không chỉ Kim Cang Tạng vương Bồ tát hộ trì thần chú, mà các quyến thuộc của Kim Cang cũng đều tham gia bảo hộ. Đêm cũng như ngày luôn theo giúp người tụng chú Lăng Nghiêm.
Lời nguyện của
các Bồ tát như sau:
- Nam mô mười
phương Phật
- Nam mô mười
phương Pháp
- Nam mô mười
phương Tăng
- Nam mô Phật
Thích Ca Mâu Ni
- Nam mô Phật
đỉnh tối thắng thủ Lăng Nghiêm.
- Nam mô
Quán Thế Âm Bồ tát.
- Nam mô Kim
Cang Tạng Bồ tát.
Tám mươi bốn nghìn là chỉ số lượng lớn, có nhiều vô số. Thực sự, không chỉ có Kim Cang Tạng Bồ tát và các quyến thuộc, mà còn rất nhiều Bồ tát khác cũng theo bảo hộ.
Hàng phục
oán ma kinh quỉ thần
Vũ trụ
cát tường chánh khí tồn
Hộ pháp vệ giáo công huân phổ
Tăng
già hợp hòa đạo dịch hưng.
Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp
Hỏi: Môn Tịnh Độ là
pháp sơ cơ, chỉ để cho kẻ ngu dốt, căn trí thấp kém hành trì. Những người căn
tánh cao phải tu Thiền hay Duy Thức mới hợp lý. Vả lại bậc trượng phu phải có
chí hùng cường tự lập, nên căn cứ nơi sức mình mà giải thoát; nếu cầu mong tha
lực, chẳng tỏ ra hèn yếu lắm ư?
- Đáp: Với lời hỏi này, trước tiên xin nói về căn cơ, sau sẽ trả lời đến yếu tố tự lực tha lực.
Pháp môn Tịnh Độ không phải chỉ để cho bậc trung, hạ
căn, mà còn thâu nhiếp cả bậc thượng thượng căn. Bậc trung, hạ căn niệm Phật sẽ dứt được phiền não nghiệp
chướng, phát sanh phước đức trí huệ, lần lần đi đến định cảnh, tùy công phu
thấp cao mà vãng sanh về chín phẩm sen nơi Cực Lạc. Bậc thượng căn vừa đề khởi
câu niệm Phật, liền thâm nhập vào cảnh giới Ðịnh Huệ, đi đứng nằm ngồi đều ở
trong Niệm Phật Tam Muội, khi lâm chung sanh về thượng thượng phẩm ở Liên Bang.
Trong hàng tiên đức đã có vị đi vào cảnh giới này, và trình thuật với câu:
Niết khởi sổ châu thằng sách đoạn
Thể hương phạn thục dĩ đa thời.
Ý nói:
Nắm lấy chuỗi tràng trần niệm dứt,
Nghiễm nhiên thành Phật đã từ lâu.
Cho nên, câu niệm Phật thâu nhiếp hết ba căn, với
người cao nó thành cao, với người thấp nó thành thấp.
Các bậc đại tri thức trong Phật Giáo thường phê
luận: "Pháp môn Niệm Phật gồm nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, Mật." Tại
sao pháp Niệm Phật lại gồm nhiếp cả bốn môn này? - Sở dĩ có điều ấy, bởi khi
niệm Phật dứt trừ cả vọng tưởng chấp trước, đó là Thiền. Sáu chữ hồng danh bao
gồm vô lượng nghĩa mầu, vô lượng nghĩa đều ẩn một và xuất hiện từ nơi đấy, đó
là Giáo. Niệm Phật đến cảnh giới sâu, ba nghiệp đều trong sạch vắng lặng, đó là
Luật. Câu niệm Phật có công năng như một câu thần chú, hay giải oan, trừ
nghiệp, mãn nguyện, hàng ma đó là Mật. Như Liên Trì đại sư, trong một năm nắng
hạn lâu ngày, thay vì niệm chú đảo võ, Ngài chỉ đi ngoài đồng gõ mõ niệm Phật,
đi đến đâu, trời mưa đến đó. Và Viên Chiếu Bản thiền sư, thay vì tham thiền,
Ngài chỉ dùng sáu chữ hồng danh mà được ngộ tánh bản lai, chứng vào Niệm Phật
Tam Muội. Cứ như đây suy nghiệm rộng sâu thêm, câu niệm Phật cũng gồm thâu cả
năm thời tám giáo, nhiếp luôn sáu pháp Ba La Mật, như Triệt Ngộ đại sư đã trình
bày trong thiên Niệm Phật Bách Kệ.
Trong kinh lại nói: "Chí thành xưng niệm danh
hiệu Phật A Di Đà, sẽ được tiêu tội nặng trong tám mươi ức kiếp sanh tử."
Người niệm Phật nếu hằng giữ định tâm, tất sẽ phát huệ đồng như lối tu của các
pháp môn khác. Hơn nữa, trên định tâm mà xưng danh hiệu Phật A Di Đà, thì sự
tiêu nghiệp chướng sanh phước huệ càng cao thắng chóng mau. Vì thế, Liên Trì
đại sư đã khen pháp Niệm Phật là: đại thiền định, đại trí huệ, đại phước đức,
đại thánh hiền. Theo Quán Kinh: người tạo tội ngũ nghịch thập ác khi lâm chung
tướng địa ngục hiện, nếu chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà cho đến mười
niệm, thì Ngài liền hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc. Từ một kẻ cực ác, chỉ
dùng mười niệm mà được vãng sanh, lên ngay ngôi Bất Thối Chuyển thật là điều
rất hy hữu. Ấn Quang đại sư đã khen: "Pháp Niệm Phật bậc cực cao niệm đến
một lòng không loạn, chứng vào Tam Muội, kẻ cực thấp chỉ dùng mười niệm thành
công, là điểm đặc sắc mà chưa thấy pháp môn nào có."
Về vấn đề tự lực tha lực, nếu như hiểu môn Tịnh Độ chỉ hoàn toàn nương nơi tha lực là
lầm. Người niệm Phật phải đem hết tự lực dứt trừ phiền não, trì niệm cho đến
cảnh giới tâm mình, và tâm Phật tương ứng. Từ cảnh giới đó, hiện thời hành giả
được Phật phóng quang thầm nhiếp thọ, khi mạng chung sẽ được tiếp dẫn vãng
sanh. Sự tiếp dẫn mới là yếu tố chánh của tha lực, vì thế giới Cực Lạc cách xa
cõi Ta Bà này đến mười muôn ức Phật độ, còn không phải sức thần thông đạo lực
tầm thường có thể đến được, huống nữa là phàm phu! Vì thế cần phải nhờ tha lực
tức thần lực của Phật hoặc chư thánh tiếp dẫn. Ví như một học sinh, tự mình
biết gắng hết sức chuyên học, dĩ nhiên là điều đáng quý. Nếu trên sự chuyên học
ấy, lại được vị giáo sư giỏi kèm theo chỉ dạy, tất mức học vấn càng cao thâm,
kết quả thi đỗ sẽ là phần bảo đảm. Trên tự lực của hành giả, thêm tha lực của
Phật gia bị tiếp dẫn cũng lại như thế. Vậy sự kiện chính
mình đã gắng hết sức để tu, lại cầu thêm tha lực cho được kết quả mau chóng, có
phải là một điều hèn yếu lỗi lầm chăng? Sự cao diệu của môn
Tịnh Độ, chính các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ; các
vị Tổ Sư như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, cho đến nhiều đấng tôn
túc ở các tông, đều khuyến nguyện vãng sanh. Chê Niệm Phật là thấp kém chỉ để
cho bậc hạ căn tu hành tức là chê chư Bồ Tát, Tổ Sư và các vị cao đức đã nói
trên. Bảo niệm Phật là hèn yếu, chỉ nương nơi tha lực, tức là chưa hiểu biết
chi về môn Tịnh Độ.
Một câu A Di Đà
Là đường tắt về nguồn.
Những tư lương cần thiết
Tín, Nguyện, Hạnh gọn suông.
Nhứt cú Di Đà
Quy nguyên tiệp kính.
Khẩn yếu tư lương
Duy Tín, Nguyện, Hạnh.
Lược giải:
Câu niệm Phật là con đường thẳng tắt để trở lại nguồn tâm. Như người đi xa cần
dự bị cho đủ tư lương là: tiền nong, đồ phục dụng và thức ăn uống. Tư lương cần
thiết đi về Tịnh độ cũng thế, chỉ suông gọn trong ba điểm: Tín, Nguyện, Hạnh mà
sau đây sẽ nói.
Một câu A Di Đà
Cần ở điểm Tin sâu.
Mầm hoa sen chín phẩm
Từ tâm đây nhô đầu.
Nhứt cú Di Đà
Yếu tại Tín thâm
Liên hoa cửu phẩm
Sưu tại thử tâm.
Lược giải:
Lòng Tin là phần tư lương trước tiên của môn Niệm Phật. Hoa sen chín phẩm ở Tịnh
độ cũng từ lòng Tin này mà nẩy mầm nhô đầu lộ mọc lên. Nhưng Tin cần phải sâu
chắc, có thể tóm gọn trong ba điểm:
Một là tin cõi Cực lạc trang nghiêm tốt
đẹp kia vẫn thật có, không phải chuyện hư huyễn hay thí dụ. Vì đức Phật Thích
Ca không bao giờ nói dối, Ngài đã diễn tả rành rẽ từng chi tiết của cảnh ấy
trong ba kinh Tịnh độ. Vì đã có rất nhiều người niệm Phật trong đời hiện tại,
do tâm thanh tịnh, từng chứng kiến cảnh giới này.
Hai là tin sự vãng sanh về cõi kia cũng
hiện thật. Vì đức A Di Đà Thế Tôn không bao giờ nguyện suông, nói mà chẳng thật
hành. Vì từ xưa đến nay có rất nhiều người niệm Phật, khi lâm chung hiện ra điềm
lành, được Tây phương Tam Thánh hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.
Ba là tin mình dù còn phiền hoặc, dù
nghiệp chướng nặng nề đến đâu, nếu chí tâm niệm Phật cầu nguyện vãng sanh tất sẽ
được tiếp dẫn. Vì trong kinh Vô Lượng thọ đã nói, kẻ tạo nghiệp ngũ nghịch thập
ác khi lâm chung dùng mười niệm cũng được vãng sanh. Vì trong truyện ký đã có
ghi, những kẻ tạo ác nhiều như Hùng tuấn, Duy Cung, nhờ biết hồi tâm niệm Phật
đều được sự tiếp dẫn.
Một câu A Di Đà
Cần ở nơi Nguyện thiết
Lòng về tơ lửa nung
Mắt thương khóc ra huyết.
Nhứt cú Di Đà
Yếu tại Nguyện thiết.
Thốn tâm dục phần
Song mục lưu huyết.
Lược giải:
Nguyện là phần tư lương thứ hai của môn Niệm Phật. Nhưng Nguyện phải tha thiết,
không tham luyến trần cảnh, gia tư, quyến thuộc, không mong cầu hưởng sự vui
phước báu nhơn thiên nơi đời sau. Chỉ nguyện mau sanh về Cực Lạc, để thoát khỏi
nỗi khổ luân hồi, để sớm thấy Phật và chứng kiến cảnh trang nghiêm của Liên
bang, để độ thoát mình, kẻ oan người thân và vô lượng chúng sanh trong vòng
chìm đắm. chí nguyện cầu sanh ấy nung nấu như lửa đốt lòng, đôi mắt thương cảm
tha thiết trông về hầu như tuôn ra huyết lệ.
Một câu A Di Đà
Cần ở chỗ Hạnh chuyên.
Chỉ nêu cao một niệm
Dứt sạch cả muôn duyên.
Nhứt cú Di Đà
Yếu tại Hạnh chuyên
Đơn đề nhứt niệm
Trảm đoạn vạn duyên.
Lược giải:
Sau rốt, Hạnh là phần tư lương thứ ba của môn Niệm Phật. Song Hạnh cần phải
tinh chuyên. Điều này có thể tóm lại trong hai câu: “Rủ sạch muôn duyên. Một
lòng niệm Phật”. Muốn rủ sạch muôn duyên, phải thấu đáo cảnh Ta bà là khổ, mọi
sự vật đều vô thường, như huyễn mộng, mà không còn niềm tham luyến. Muốn một
lòng Niệm Phật, phải hâm mộ cảnh Cực lạc y báo chánh báo vui đẹp trang nghiêm,
mong mỏi cầu về như con thơ nhớ mẹ, như lữ khách tưởng nghĩ trở lại quê xưa.
Ba điểm Tín, Nguyện, Hạnh trên tuy giải thích riêng từng phần, song thật ra cả ba đều liên quan hỗ trợ lẫn nhau. Như cái đảnh có ba chân, nếu thiếu một phải sụp đổ tất cả vậy.
TRÍ KHẢI
Trí Khải đại sư, họ Trần, tự Đức An, quê
ở Vĩnh Xuyên thuộc Kinh Châu, tinh Hồ Bắc. Đại sư ứng thế vào khoảng các đời
Lương, Trần, Tùy. Bà mẹ mộng thấy mây thơm năm sắc hiện ra đoanh vây nơi thân rồi
vào bụng, mà cảm mang thai ngài. Đêm đại sư đản sanh, trong nhà hương thơm bát
ngát, thần quang chiếu sáng rực rỡ:
Ngài sanh ra đã bẩm tướng lạ: mày thanh
tú, mắt dài sáng, mỗi tròng mắt có hai con ngươi nằm ngang. Nơi hai tay, mọi
cùi chỏ đều có bốn cục xương gu. Khi nằm tất nghiêng bên hữu, chắp hai
tay. Lúc ngồi thì thường kiết già day mặt về Tây. Vừa hơi lớn, thấy tượng Phật
liền lạy; gặp người xuất gia, tỏ dáng cung kính.
Năm lên bảy ngài theo mẹ vào chùa Quả
Nguyện. Nghe một vị tăng tụng phẩm Phổ Môn, liền đọc lại thuộc lòng, như đã có
học tập từ trước. Lúc mười bảy tuổi, đang khi lễ Phật rồi quì xuống thệ nguyện
xuất gia, ngài bỗng như vào mộng, thấy cảnh giới biển rộng mênh mông, nước ngâm
trong vắt. Gần mé biện có một tòa non cao chớn chở, mây phủ lưng chừng, mặt trời
chiếu sáng. Khi ấy ngài thấy mình đứng dưới núi, trên đảnh có vị tăng cúi xuống
đưa cánh tay dài kéo lên, dẫn vào một ngôi già lam, bảo: “ Về sau, ông sẽ trụ
nơi đây để hoằng hóa”.
Năm mười tám tuổi, ngài nương theo Pháp
Chữ thượng nhơn ở Quả Nguyên Tự tại Sương Châu xuất gia. Kế đó, lại đến chùa
núi Đại Hiền học tập Luật tạng, tụng kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Pháp Hoa, và tu
Phổ Hiền Quán. Vào đầu niên hiệu Thiên Gia, nghe danh đức của Huệ Tư thiền sư ở
núi Đại Tô tại Quảng Châu, đến tham bái. Huệ Tư vừa nhìn thấy ngài liền bảo:
“Ta với ông xưa kia đồng nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở Linh Sơn đại hội, túc
duyên theo đuổi, nay lại gặp nhau!” Nhân đó thiền sư khai thị về Tứ an lạc hạnh,
và dạy cách kiến nhập Phổ Hiền đạo tràng. Đại sư lãnh giáo, nương tại đây nhập
quán tu Pháp Hoa tam muội. Vừa được hai thất, khi tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm
Dược Vương câu: “Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai …”,
thân tâm chợt rỗng không, lặng lẽ vào định. Trong định, ngài thấy hội Linh Sơn
vẫn còn hiển hiện đông đảo chưa tan, liền thấu suốt ý chỉ Pháp Hoa và các pháp
tướng, túc thông thầm phát. Đại sư đem sở chứng bạch với ngài Huệ Tư. Thiền sư
than thở ngợi khen bảo: “Chỉ riêng ông mới chứng, duy có ta mới biết! Định cảnh
ấy thuộc về tiền phương tiện và Pháp Hoa tam muội. Chỗ phát túc thông thuộc Sơ
Triền Đà Ra Ni môn. Từ đây về sau, dù cho ngàn muôn văn tự pháp sự, cũng không
thể làm cạn nguồn biện luận của ông được!”
Niên hiệu Đại Kiến năm đầu đời Trần,
ngài đến chùa Ngỏa Quan ờ Kim Lăng khai giảng Pháp Hoa. Vua sắc chỉ đình triều
một ngày, bảo quần thần tề tựu lại chùa nghe giảng đề kinh. Năm Đại Kiên thứ bảy,
đại sư đến núi Thiên Thai ở miền duyên hải để tránh duyên an dưỡng. Đi tới ngọn
núi phía nam, ngài trông thấy cảnh bỗng bồi hồi xúc động. Nơi đây có vị thần
tăng hiệu là Định Quang đã cư ngụ từ ba mươi năm trước. Khi gặp nhau, thần tăng
bảo: “Ông còn nhớ điềm ta đưa lên núi chăng? Ở sơn lãnh phía bắc có một nơi
ngân địa, hãy lên đó kiến lập già lam độ chúng”. Đại sư y lời đến xem thấy cảnh
đúng như điềm ứng trước, liền xây dựng chùa, trồng cây thông, dẫn nước suối,
khiến cho ngôi tự viện càng thêm u nhã. Từ đó ngài giảng diễn các kinh giáo đại
thừa, như Pháp Hoa, Kim Quang Minh, luận Ma Ha Chỉ Quán, rộng mở về thiền pháp,
hàng tăng tục nương về ngày càng thêm đông, về phần chư thần quy hướng, như cha
con Quan thánh và Võ An Vương đêu hiển linh cầu thọ giới, xin làm đệ tử hộ
pháp.
Không bao lâu, đại sư lại nhận lời thỉnh
của vua nhà Trần, trở về Kim Lăng giảng kinh Pháp Hoa Văn Cú tại chùa Quang Trạch.
Nhà Trần mất, ngài vào Lô Sơn, kế lại châu du cac miền Kinh, Dương hoằng pháp.
Năm Khai Hoàng thứ mười bốn đời Tùy, lại trở về núi Thiên Thai.
Cộng nghiệp lợi sanh của đại sư rất nhiều, nơi đây chỉ thuật phần đại khái. Trước sau, ngài tạo 36 ngôi chùa lớn, tổ chức cho biên chép 15 pho đại tạng kinh, độ hơn 14.000 vị xuất gia, trong đó có 32 bậc cao đồ đắc pháp, tạo 800.000 tượng Phật, Bồ Tát bằng vàng, đồng, cây chiên đàn, hoặc những thứ gỗ khác, khai 63 ao phóng sanh ở các vùng Hộ, Khê, Lương dài khoảng ba trăm dặm, soạn thuật các tập như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Tịnh Độ Thập Nghi Luận, Ma Ha Chỉ Quán, Kim Quang Minh Văn Cú, Quán Kinh Sớ cùng nhiều kinh luận khác, mở những đàn truyền giới và các khóa diễn giảng khuyến hóa ngư dân miền duyên hải bỏ nghề chài lưới, cùng viết biểu tấu với vua nhà Trần xin xuống chỉ cấm việc sát sanh quanh vùng bờ biển núi Thiên Thai. Tóm lại, trong hai đời Trần và Tùy, ngài là bậc đại pháp vương hội trì chánh giáo. Thái tử Tấn Vương Quảng (Dạng để), từng thỉnh ngài đến hoàng cung cầu xin thọ giới Bồ Tát và tôn hiệu là Trí Giả đại sư. Sau ngài lại về quê cũ ở Kinh Châu, kiến thiết chùa Ngọc Tuyền, giảng dạy kinh pháp để báo ân người hương lữ.
Về ý nghĩa pháp môn Tịnh độ, trong Thập
Nghi Luận, đại sư đã khai thị yếu lược như sau:
– “Muốn quyết định được sanh về Cực Lạc,
phải có đủ hai hạnh: Yếm ly, Hân nguyện, nghĩa là chán bỏ và vui cầu.
– Yếm ly là thế nào? Nên xét nghĩ: hàng
phàm phu chúng ta từ kiếp vô thỉ đến nay, vì đắm say tự ràng buộc theo năm điều
dục lạc là: sắc đẹp, tiền của, danh vị, ăn uống và ngủ nghỉ, mà bị luân hồi
trong sáu đường, chịu đủ không ngằn sự khổ não. Nếu chẳng khởi tâm chán bỏ, thì
biết chừng nào mới được thoát ly? Phải quán xét tâm giả tạm nầy, bề ngoài chỉ một
lớp da mỏng manh che phủ, bên trong chứa đầy các thứ tanh hôi như: ruột, gan,
óc, phổi, xương, thịt, máu, mủ, đàm, dãi, nước tiểu, phẩn uế. Cửu khiếu lại thường
tiết ra các thứ không sạch, các lỗ chân lông hằng ra mồ hôi bợn nhơ. Kinh Niết
Bàn nói: “Thân nầy như vòng thành nhơ uế, loài quỉ La Sát ngu si hằng tham trước
nương ở trong đó. Người có trí ai lại đắm luyến huyễn thân?” Lại trong kinh bảo:
“Thân nầy không bền lâu, là chỗ nhóm họp của các thứ khổ, các thứ nhơ nhớp; là
nơi sanh khởi các thứ ung nhọt ghẻ lác, các bịnh trong và ngoài. Thân nầy do
phiền não dâm dục gây ra, là nghiệp chủng không sạch: Do tinh cha huyết mẹ hòa
hợp, là mầm giống không sạch. Ở trong thai mẹ chật hẹp tối tăm nhơ nhớp, là chỗ
trụ không sạch. Khi còn trong thai dùng chất máu huyết để sống, là sự ăn uống
không sạch. Do sản môn sanh ra, là chỗ sanh không sạch. Từ bé đến già bề ngoài
bao lớp da mỏng, bên trong đầy thứ tanh nhơ, lại đủ các sự suy yếu bịnh khổ, là
cả thân không sạch. Lúc chết rồi lại sình thối nát rã, vòi tửa lúc nhúc, là kết
cuộc không sạch. Thường quán sát bảy điều không sạch như thế, tất sẽ sanh niệm
chán lìa. Dù chưa thể liền dứt được nghiệp vợ chồng, thì phiền não ái dục cũng
lần lần nhẹ bớt. Lại phát nguyện mong sớm bỏ thân nhơ nhớp khổ não, cầu sanh Cực
Lạc, được thân bằng chất báu ngọc kim cương đủ 32 tướng tốt, lần lần tiến chứng
vào thân pháp tánh sáng suốt lặng trong.
– Còn Hân nguyện là thế nào? Nên nghĩ,
nay ta cầu sanh Tịnh độ, trước là để được sống trong cảnh lầu các, cây hoa, ao
hồ, âm nhạc, chim lạ, đủ vô lượng thứ báu, vô lượng sự trang nghiêm vui đẹp ở
Liên bang. Sau đó, tiến tu để độ mình, thân bằng quyến thuộc, cùng tất cả chúng
sanh trong vòng mê khổ. Nay ta nghiệp chướng nặng đầy, đạo lực yếu kém, nếu
không biết tự lượng, mê ở cõi đời nhơ ác, cảnh duyên phiền não mạnh, tất sẽ bị
sóng nghiệp cuốn lôi chìm đắm, sự độ mình không rồi, nói chi độ chúng? Như thế
biết chừng nào mới thoát ly khỏi kiếp sa đọa luân hồi? Nếu được về Cực Lạc, tất
ở cõi nghiêm sạch trang nghiêm, sống lâu vô lượng kiếp, gần gũi chư Phật, Bồ
Tát, đủ các thuận duyên tiến tu, không còn lo thối chuyển. Khi đã chứng quả vô
sanh, phân vô lượng thân vào các cõi trược, độ vô biên loài hàm thức, nào có muộn
gì? Cho nên phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, tức là phát tâm bồ đề, tức là phát
tâm cầu Phật qụả, tức là phát tâm độ chúng sanh, tức là phát tâm nhiếp hóa
chúng sanh về cõi Phật vậy”.
Năm Khai Hoàng thứ bảy đời Tùy, khi hóa
duyên đã mãn, sắp nhập diệt, đại sư tập họp chúng bảo tụng các kinh Pháp Hoa,
Vô Lượng Thọ, rồi khen ngợi rằng: “Lành thay Diệu Pháp Liên Hoa kinh, cha mẹ của
pháp môn, bản tích rộng lớn, nhiệm mầu khó lường! Lành thay Vô Lượng Thọ kinh,
bốn mươi tám nguyện trang nghiêm Tịnh độ, ao sen cây báu, dễ vãng sanh mà ít kẻ
nguyện cầu! Người tạo ngũ nghịch thập ác tướng địa ngục hiện, một niệm cải hối
còn được sanh về, huống là bậc giữ giới chuyên tu, tất công phu không luống uổng
vậy!” Hàng đệ tử là Trí Lặng Pháp sư thưa thỉnh rằng: “Xin mở lượng từ bi, giải
tỏ niềm nghi hoặc. Chưa rõ tôn đức chứng đến ngôi vị nào và khi mạng chung sẽ
sanh về đâu?” Đại sư đáp: “Nếu ta không lãnh chúng, tất chứng vị Thanh tịnh lục
căn. Vì tổn mình lợi người, nên chỉ đến ngôi Ngũ phẩm. Hiện thời các hàng thầy
bạn theo hầu Phật và đức Quán Âm, Thế Chí đến rước ta vãng sanh!” Nói xong, hướng
về Tây chắp tay xưng niệm A Di Đà Phật, Bát Nhã, Quán Âm rồi lặng lẽ như vào
tam muội mà tịch.
Lúc ấy, nhằm ngày 24 tháng 11, đại sư thọ
đựợc 67 tuổi. Khi sắp đưa linh quan về ngọn Phật Lũng để nhập tháp, mưa to xối
xả không dứt. Các đệ tử cầu nguyện, mưa liền tạnh ráo, bầu trời trở nên trong
sáng, gió thông vi vút tợ kêu thương, nước suối tràn reo như bi cảm. Lúc đưa
linh quan đến tháp, trời mưa hương hoa lạ rơi lác đác, mọi người cầu nguyện đều
được cảm ứng. Đại khái như Thích Huệ Diên ở chùa Thiên Hương, tả kinh Pháp Hoa
cầu đại sư xác nhận đã sanh về cõi nào? Đêm lại, năm mộng thấy ngài theo đức
Quán Âm từ phương Tây đi đến bảo: “Ta về cõi Cực Lạc ở Hoa Tạng thể giới, ông
đã dứt hết lòng nghi chưa?” Đại sư là Sơ tổ tông Thiên Thai, lịch đại truyền thừa,
đến nay môn phong hãy còn thạnh.
Comments
Post a Comment