Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
391. TÁT BÀ ĐỘT LANG CHỈ ĐẾ TỆ PHẤN
薩婆突狼枳帝弊泮
SARVA DURLAM GHIMTE BHYAH PHAT
Nhất
thiết ma chúng hại sanh linh
Tăng
gia thế lực quyến thuộc hưng
Thử
Chú tụng trì tức hàng phục
Hư
không pháp giới khánh khang bình.
一切魔眾害生靈
增加勢力眷屬興
此咒誦持即降伏
虛空法界慶康平
HÀNG
PHỤC CHÚNG MA, PHÁT
BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
Biện Ma
Cảnh
Như trên đã nói, người niệm Phật có khi thấy các
tướng song lại là ma cảnh; điều này chỉ cho trường hợp nhân quả không tương
ứng. Chẳng hạn như người đang quán tướng Phật, hốt nhiên thấy tướng mỹ nữ. Kẻ
tinh tấn niệm Phật mong thấy thắng cảnh ở Tây Phương, song chợt thấy một vùng
nhà cửa ô tạp, nam nữ cùng loài súc vật đi qua chạy lại lăng xăng. Người mong
thấy hoa sen báu, nhưng bỗng thấy một cỗ xe nhỏ. Do nhân quả không hợp nhau như
thế, nên biết là cảnh ma. Có năm trường hợp để phân biệt là cảnh ma hay cảnh
thật như sau:
1. Các cảnh nhân quả không phù hợp, quán tướng này
song thấy tướng khác, cầu cảnh nọ mà lại hiện cảnh kia, như trên đã vừa nói. Và
lại, cảnh hiện ra không giống như trong kinh diễn tả, đều là cảnh ma.
2. Chư Phật, Bồ Tát tâm từ bi trong sạch, cho nên dù
hiện tướng quỷ thần đến thử thách, ta vẫn cảm thấy an nhiên thanh tịnh. Trái
lại, bản nghiệp các loài ma là phiền não hiểm ác, nên dù hiện tướng Phật đến
khuyên dạy, ta tự cảm thấy xao động nóng nảy không yên.
3. Ánh sáng của Phật làm cho ta cảm thấy êm dịu mát
mẻ, lại không có bóng, không chói mắt. Ánh sáng của ma làm cho ta chói xót đôi
mắt, bứt rứt không yên, và có bóng. Cho nên Kinh Lăng Già nói:
4. Lời thuyết pháp của Phật, Bồ Tát hợp với kinh
điển, thuận theo chân lý. Lời của ma trái lẽ phải, không đúng với kinh Phật đã
chỉ dạy.
5. Khi thắng tướng hiện ra, muốn khảo nghiệm, hành
giả chỉ chánh ý tụng Bát Nhã Tâm Kinh, hoặc nhiếp tâm trì chú, niệm Phật. Nếu
là thánh cảnh, càng niệm lại càng rõ ràng, vì vàng thật không sợ lửa. Nếu là ma
cảnh, trì niệm một hồi nó liền ẩn mất, bởi tà không thể lấn chánh.
Phải lấy cả năm điều như trên để xét nghiệm, chớ
không thể chỉ một hai điều. Vì có những thiên ma hoặc thần tiên theo ngoại
phái, muốn dắt dẫn ta hướng về đường lối của họ, nên giả hiện tướng Phật, Bồ
Tát để thuyết pháp. Tuy môn tu của họ không phải là con đường cứu cánh giải
thoát, song họ có nghiệp lành, hoặc sức Thiền Ðịnh khá cao, nên hào quang phát
ra cũng làm cho ta được mát mẻ êm dịu. Lại lối thuyết pháp của họ đôi khi cũng
khuyên làm lành giữ giới, ăn chay niệm Phật, song có một vài điểm sai khác
không hợp với kinh Phật, phải nhận định kỹ và phải hiểu giáo lý mới biết được.
Chẳng hạn như họ cũng khuyên ăn chay niệm Phật, nhưng lại dạy phải vận hành câu
niệm Phật khắp châu thân gọi là "chuyển pháp luân" để khai thông mạch
Nhâm, Đốc, và mở Nê Hoàn Cung. Đây là lối thuyết pháp của hàng ma ngoại đạo.
Hoặc có loài ma hiện ra tướng cao tăng bảo: "Phật đồng, Phật xi măng không
độ được nước, vì xuống nước phải chìm; Phật tượng, Phật gỗ không độ được lửa,
vì gặp lửa phải bị cháy; chỉ có Phật tâm mới không bị vật chi làm hoại. Tu được
Phật tâm thanh tịnh thì không cần tu thân và khẩu; cho nên dù ăn thịt uống
rượu, có vợ con cũng vô hại. Lối tu thân và khẩu như giữ giới, ăn chay, tụng
kinh, trì chú, niệm Phật, là những cách khổ hạnh bó buộc vô ích." Đây là
lời thuyết pháp của hạng tinh mị lâu năm, hoặc loài ma ái dục. Có những hạng ma
ngoại đạo công năng tu khá cao, có thể dùng sức Thiền Ðịnh gia bị, khiến cho
hành giả thân tâm được an định trong vòng bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày.
Nhưng lối thuyết pháp của họ không siêu thoát, kết cuộc chỉ trong vòng ngã
chấp.
Cổ đức đã bảo: "Thấy ma không ma, ma liền tự
hoại; thấy quái không quái, quái liền tự bại." Câu này có nghĩa: nếu thấy
ma quái mà lòng không xao động sợ hãi, giữ chánh niệm được vững vàng, hoặc chí
tâm niệm Phật, loài ma quái ấy không làm chi được, sẽ tự bỏ đi. Chẳng những khi
thấy ma quái phải như thế, mà dù cho lúc tu hành được một phần kết quả, hay
thấy thắng tướng, cũng đừng nên quá bi cảm, kinh ngạc hoặc vui mừng. Ví như ta
có hạt châu làm rớt dưới đáy hồ, vì nước đục nên dò kiếm mãi vẫn mất tích. Nay
nước lắng trong lại tìm thấy được, hạt châu ấy nguyên là của đã có, việc chi
đến đỗi phải kinh ngạc, vui mừng? Người tu nếu tâm không bình tĩnh, quá bi
thương, tất bị loài bi ma ám nhập làm cho thương khóc mãi chẳng thôi. Như quá
vui mừng, cũng bị loài ma hoan hỷ ám nhập, làm cho cười mãi như điên cuồng.
Lại, hành giả niệm Phật tuy cũng mong được thấy thánh cảnh, nhưng đừng quá mơ
tưởng ước ao, bởi niệm tức là đã cầu rồi. Nên giữ tâm trạng điềm tĩnh,
"cầu mà không cầu, không cầu mà cầu", mới không bị sự cầu mong làm
xao động. Cứ chí tâm niệm Phật, lâu ngày niệm lực thanh tịnh đạo cảm ứng giao
thông, tất thấy được thánh cảnh. Nếu mãi để lòng mong ước, đó tức là vọng
tưởng, ma sẽ thừa cơ len lỏi vào để phá hoại.
Vào khoảng Thanh mạt bước sang thời Dân Quốc, ở
Trung Hoa có ông Ngụy Tịch Phủ vốn là thiền hữu của cư sĩ Dương Nhân Sơn, Ngụy
Tịch Phủ tu tập Thiền Ðịnh gần ba mươi năm, một hôm bỗng được Thiên Nhãn Thông.
Ban sơ, ông thấy những vật ngoài tường vách, kế lại thấy rõ những việc xung
quanh vài ngoài mươi dặm như ở trước mắt. Biết mình đã đắc Thiên Nhãn, ông rất
kinh ngạc vui mừng! Ban đầu chỉ thấy thôi, sau lại nghe rõ cả tiếng người và
cầm thú ở ngoài xa. Đó là Thiên Nhĩ Thông tùy theo phát hiện. Lần hồi những sự
vật ngoài mấy ngàn dặm, cũng đều thấy nghe được. Sau đó những việc chưa phát
hiện, ông vẫn thấy nghe và hiểu biết rõ ràng. Đây là cảnh chứng của Túc Mạng
Thông. Bấy giờ phe đảng của Hồng Tú Toàn thuộc nhóm Thái Bình Thiên Quốc chưa
khởi sự đánh Thanh triều, nhưng Ngụy Tịch Phủ đã thấy trước chiến cuộc xảy ra ở
Quảng Tây lần hồi đến Tô Châu, nhơn dân chết vô số. Bởi mục kích nhiều trạng
thái chết chóc rất thê thảm, ông quá xúc động, gặp ai cũng thương khóc bảo:
"Đại loạn sắp đến nơi rồi, dân chúng sẽ bị tàn lục khổ sở đáng thương xót,
biết làm sao?" Lúc đó mọi người nghe ông nói thế, ai cũng cho là điên. Cư
sĩ Dương Nhân Sơn bấy giờ ở kinh sư thường gần gũi ông, nên biết rõ việc ấy. Kế
đó giặc xảy ra thật. Đến khi loạn bình rồi, Dương Nhân Sơn cư sĩ gặp Ngụy Tịch
Phủ ở Dương Châu mấy lần, thấy ông vẫn còn khóc lóc. Sau Nhân Sơn gặp cư sĩ
Đinh Phước Bảo, trần thuật lại sự việc và nói: "Đó là cảnh bi ma ám nhập.
Phàm người tu đến lúc đắc lực, Thiên Nhãn Thông ngẫu nhiên phát hiện, nên soi
về tự tánh, đừng để cho sắc trần làm lay chuyển. Nên biết các thần thông ta vẫn
sẵn có, không nên quá mừng rỡ kinh ngạc cho là sự lạ kỳ."
Trong Trúc Song Tùy Bút Lục, Liên Trì đại sư có
thuật lại câu chuyện:
- Một thiền sư cất am tu gần khe suối. Đêm nọ đang
lúc tĩnh tọa, sư nghe thấy hai con quỷ ngồi bên bờ suối nói với nhau rằng:
"Ngày mai vào lúc xế chiều, có người đội mão sắt đi qua cầu suối này, tôi
sẽ dìm cho chết đắm để thay thế." Con quỷ kia bảo: "Mừng giùm anh sẽ
được thoát ly, tôi còn phải chịu lạnh lẽo chờ đến hai năm sau mới có người thế
mạng." Thiền sư nghe xong lưu ý. Trưa hôm sau, một trận mưa to đổ xuống,
nước dâng ngập cả suối cầu. Xế lại mưa còn lâm râm, quả nhiên có người đầu đội
cái chảo gang, lần dò muốn vượt qua cầu suối về nhà. Sư liền đón lại thuật rõ
sự việc nghe thấy. Người này cả kinh quay trở lại. Tối hôm đó, thiền giả nghe
con quỷ nói: "Sắp được thoát ly mà bị ông thầy tu này phá hoại, đêm nay
tôi phải báo thù mới được!" Sư nghe xong, liền nhiếp tâm nhập chánh định,
thấy quỷ ra vào và đi xung quanh am mấy lượt như có ý tìm kiếm. Do sức chánh
định, quỷ tìm mãi không thấy được thiền sư, sau cùng chán nản bỏ đi.
Trên đây là hai câu chuyện "bi ma" và
"khước ma". Xin ghi lại cho chư liên hữu thêm phần ý thức trên đường
tu niệm.
Các Loại Ma
Ba tiết Nội Cảnh Giới, Ngoại Cảnh Giới, Biện Ma Cảnh
vừa viết xong, có một liên hữu đến thăm thấy bút giả đang duyệt xem lại, liền
xin đọc cho nghe. Sau khi nghe qua, vị này yêu cầu nói rõ thêm về các loại ma
để những bạn đồng tu biết mà phòng ngừa. Thật ra, trong ba tiết trên đã nói
khái quát về các cảnh giới, trong ấy có ma cảnh; nếu hành giả nắm được cương
yếu, tự có thể giữ vững tâm và đối trị với mọi cảnh duyên phá hoại. Nhưng thể
theo lời yêu cầu đó, nhân tiện cũng xin trình bày tổng quát về các loại ma như
sau:
"Ma" tiếng Phạn gọi Ma La, Trung Hoa dịch
là Sát, bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu.
"Ma" cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối đạo tâm,
cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác rồi kết cuộc bị sa
đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết Bàn, gọi
là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong
vòng sống chết luân hồi, là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ
việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Ma tuy nhiều, nhưng kết yếu chỉ có ba loại
là: Phiền Não Ma, Ngoại Ma và Thiên Ma.
Phiền Não Ma chỉ cho các phiền não tham nhiễm, hờn
giận, si, mê, khinh mạn, nghi ngờ, ác kiến; cho đến các thứ ma: năm ấm, sáu
nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Loại ma này cũng gọi là Nội ma, do lòng mê
muội điên đảo sanh ra, nên phải dùng tâm chân chánh sáng suốt giác ngộ mà giải
trừ. Phàm phu tự mình đã có những nghiệp riêng, lại do công nghiệp sống chung
trong khung cảnh, mà người xung quanh phần nhiều tánh tình hiểm ác, nghiệp
chướng lẫy lừng, nên dễ động sanh phiền não. Có kẻ không chịu đựng nổi sự lôi
cuốn của ngũ trần, nên bị sa ngã. Có người vì nghịch cảnh, khiến cho bi thương
sầu não, chí tiến thủ tiêu tan. Những sự việc này xui khiến người tu nhẹ thì ưu
sầu, uất ức sanh đau bịnh; nặng thì chán nản bỏ đạo, hoặc phẫn chí tự tận; nguy
hại hơn nữa, tất đến chỗ đối với hàng xuất gia, tại gia đều mất hết mỹ cảm,
tránh xa chán ghét, sanh việc khinh rẻ, chê bai, không tin nhân quả, làm điều
ác rồi phải đọa tam đồ.
Muốn đối trị thứ ma này, hành giả phải quán xét
phiền não là hư huyễn, xao động, nóng bức, trói buộc, tối tăm, chỉ làm khổ cho
người và mình. Dứt phiền não, ta sẽ trở về chân tâm tự tại giải thoát, mát lặng
sáng trong, an vui mầu nhiệm. Đối với sự mê chấp từ năm ấm cho đến mười tám
giới cũng nên quán như thế. Trong Kinh Pháp Hoa, đức Phật bảo: "Các ngươi
chớ nên tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thô tệ. Nếu mê đắm tham
trước, tất bị nó thiêu đốt." Khi xưa đức Văn Thù hỏi một vị thiên nữ:
"Ngươi xem mười tám giới như thế nào?" Thiên nữ đáp: "Như thấy
kiếp lửa đốt thế gian!" Đây là những lời cảnh giác để phá trừ loại ma
phiền não.
Phiền Não Ma hay Nội Ma, nếu không chế phục được,
tất sẽ chiêu cảm đến Ngoại Ma ở ngoài đến phá. Lời xưa nói: "Trong cửa có
tiểu nhơn, ngoài cửa tiểu nhơn đến. Trong cửa có quân tử, ngoài cửa quân tử
đến." Lại như khi ăn trộm đào ngách muốn vào nhà, gia chủ hay được tỏ ra
bình tĩnh răn trách, tất nó phải sợ hãi bỏ đi. Nếu chủ nhà kinh sợ, rối rít năn
nỉ, đó chính là thái độ khuyên rước trộm vào nhà vậy.
Ngoại Ma là những loài quỷ thần, yêu mị bên ngoài.
Người tu khi có đôi chút công phu, liền bị nó đến thử thách phá khuấy. Loài này
có thể chia thành ba hạng là: Bố Ma, Ái Ma và Não Ma.
1. Bố Ma là loài ma ưa khủng bố làm cho người kinh
sợ. Thứ ma này thường hóa hình cọp, sói, rắn, rít, hoặc các loài thú hung dữ kỳ
lạ, hay hình ác quỷ ghê rợn để dọa nhát người tu. Những hình tướng này biến
huyễn vô cùng, hoặc không đầu, nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt; hoặc mình người
đầu thú, mình thú đầu người, hoặc cầm khí giới, hoặc phun lửa đỏ. Nếu hành giả
kinh hãi, liền bị nó phá làm mất chánh niệm, lắm khi sanh điên cuồng. Gặp cảnh
này, nên nghĩ các tướng đều giả dối, ma chỉ có thể hủy diệt huyễn thân chớ
không thể phá hoại được chân tâm. Suy xét như thế rồi liền bình tĩnh không sợ
chết, an nhiên chuyên tâm niệm Phật hoặc trì chú, nó sẽ tự rút lui.
2. Ái Ma là loài ma khích động lòng ái dục cho đến
tâm tham nhiễm cảnh ngũ trần. Chúng hóa hình nam, nữ lõa lồ xinh đẹp; hoặc hình
cha mẹ, anh em, kẻ thân mến; cho đến thân Phật, Bồ Tát tướng tốt trang nghiêm
để khuyến dụ. Nếu người thích ăn ngon, chúng hóa sơn hào, hải vị hương thơm
ngào ngạt đem dâng; người ưa bảo vật, chúng hiện hình thú lạ ngậm châu ngọc đến
hiến tặng. Tùy tâm niệm hành giả ưa thích điều chi, nó liền hiện ra thứ ấy.
Chúng có thể dùng ma lực khiến cho người tu được tà định, tà trí, tài biện
thuyết, phép thần thông biết quá khứ, vị lai. Những kẻ không hiểu cho là đã
chứng đạo quả, thảy đều tin phục; song kỳ thật người kia trong tâm điên đảo,
chuyên làm phép quỷ mê hoặc thế gian.
Có một nhà sư Việt Nam tu tại chùa Bàng Long bên
Lào, trong khi Thiền Ðịnh thấy một nhóm mỹ nữ lõa lồ, nắm tay nhau nhảy múa. Sư
trấn định tâm không nổi, liền thành khẩn niệm Phật, tướng ấy mới tan.
Khi xưa, ở chùa núi Chung Nam tại Trung Hoa, có một
vị sư đang tham thiền, nhân khi trời lạnh bụng đói, động niệm tưởng ăn; bỗng
thấy một thiếu phụ bưng thức ăn đến cúng dường. Thiếu phụ quì sớt đồ ăn vào
bát, thỉnh sư nên dùng liền kẻo nguội lạnh, mất ngon. Sư vì đói muốn thọ dụng
ngay, nhưng nghĩ chưa đến giờ thọ trai, nên nhẫn nại bảo hãy tạm để một bên,
chờ đúng giờ rồi sẽ ăn. Thiếu phụ nghe nói, có vẻ hờn giận bỏ đi. Giây lâu sau
đúng ngọ, sư giở bát ra thấy trong ấy toàn là giòi bò lúc nhúc. Chừng ấy ông
mới tỉnh ngộ, biết vừa động sanh vọng niệm, liền rước lấy cảnh ma; may nhờ có
chút định lực mới khỏi ăn đồ dơ và phạm giới sát.
Lại một vị sư cũng tu Thiền trong non, thấy mình lẻ
loi cô quạnh, nên sanh vọng tưởng muốn được một ít người cùng ở cho vui. Vừa
đâu có bà lão dẫn hai cô gái trẻ đẹp, bảo nhà ở dưới làng chân núi, tìm đến am
tranh cầu xin dạy đạo. Vị tăng ban sơ không nghi ngờ, liền thuyết pháp khai
thị. Tới lui như thế lâu ngày, một hôm bà lão thưa bạch xin cho hai cô gái làm
thị giả lo việc giặt giũ, cơm nước để sư đỡ nhọc. Sư nghe nói thoáng sanh lòng
ngờ lạ, liền nghiêm trách từ chối. Ba người đó có vẻ hờn thẹn bỏ đi. Sư lén
theo dõi, qua một khúc quanh bỗng chợt mất bóng, đến xem thì đã cùng đường, lại
không có nhà cửa chi cả, chỉ thấy ba gốc cổ thụ, một to, hai nhỏ. Ông suy nghĩ
biết đây là yêu tinh cổ thụ làm quái; muốn đem búa chặt đốn hoặc nổi lửa thiêu
đốt để dứt trừ hậu hoạn. Vừa nghĩ đến đó bỗng thấy ba người hiện ra cầu sám hối
và xin tha mạng.
Thế nên biết, tâm yên cảnh lặng, vọng khởi ma sanh,
người tu phải ghi nhớ điều này.
3. Não Ma là loại ma chuyên phá rối, làm não loạn
người tu. Có giống tinh mị mỗi loài đến theo giờ của nó, đại khái mỗi giờ có ba
loài, mười hai giờ thành ba mươi sáu loại tinh thú. Như giờ Dần đến, tất là
loài cọp, beo, gấu; giờ Mẽo đến là loài mèo, thỏ, cáo; giờ Thìn đến là loài
rồng, cá, thuồng luồng... Theo trong Tọa Thiền Chỉ Quán có thứ quỷ Du Lạp Kiết
Chi, Trung Hoa gọi là Đôi Dịch, đầu mặt như cây đàn tỳ bà, bốn mắt, hai miệng,
thường ưa khuấy động phá rối người tu. Chúng chờ khi người đang tụng niệm, hóa
ra loài sâu trùng, hoặc bò lên khắp đầu mặt; hoặc chun vào miệng, lỗ mũi, mắt,
lỗ tai; hoặc chui vào nách, bụng của hành giả mà cắn, chích. Đôi khi chúng kêu
vang vào lỗ tai, làm thành tiếng ồn náo, nhức óc; hoặc chợt ôm giữ người, quơ
tìm thì không đụng thấy. Chúng còn hóa ra cảnh ngũ trần hoặc thuận, hoặc
nghịch, hoặc không thuận nghịch, biến huyễn khôn lường, làm cho hành giả loạn
động chẳng biết đâu mà nhận thức, dễ mất định tâm. Muốn đối trị với ba mươi sáu
loài tinh thú, cứ theo giờ kêu tên của nó mà quở trách; với ma Đôi Dịch, nên
tụng Tam Quy, Ngũ Giới hoặc giới bổn, bởi chúng là thứ quỷ phạm tội phá giới.
Làm như thế chúng liền ẩn mất. Hoặc cách đối trị tổng quát là nên nhiếp tâm vào
chánh định, hay chuyên chí trì chú, niệm Phật, chúng sẽ biến tan.
Gặp cảnh ma chướng quá nhiều, người xưa còn có
phương pháp là sắm hai mặt gương soi, rồi nhập thất bốn mươi chín ngày, chuyên
tụng chú Đại Bi hoặc chú Chuẩn Đề gia trì vào trong gương. Xong, treo hai tấm
gương trên cao chiếu nghiêng xuống nơi chỗ thường ngồi trì niệm, một để trước
mặt, một ở sau lưng. Nếu loài ma đến liền bị thâu bắt hiện hình vào gương,
chừng ấy hành giả muốn đuổi đi hay hành phạt gì tùy ý. Gương phép này lâu lâu
phải dùng vải sạch lau chùi và gia trì thần chú một lần. Làm như thế nó chẳng
những nhắc nhở cho sự trong sáng của tâm linh, mà còn tăng thêm phần ứng
nghiệm. Đây là cách dùng gương để đối trị nội ma và ngoại ma theo kinh nghiệm
của tiền nhơn.
Để nói rộng thêm, Ngoại Ma còn là những ma về bàng
môn ngoại đạo. Theo chỗ nhận thấy của bút giả cùng nhiều đồng bạn, những vị
kiếp trước hoặc kiếp này đã tu theo ngoại đạo, sau trở lại quy đầu Phật pháp;
hoặc những vị tuy chỉ nương về Tam Bảo, nhưng xưa kia ông bà cha mẹ đều theo
bàng môn, thường hay bị ngoại ma phá rối. Bởi lối tu của ngoại đạo đều không
rời phiền não hữu lậu, còn trong vòng tự cao chấp ngã, tham đắm quyền danh, nên
hàng ngoại đạo hay quy tụ bè phái, không muốn cho người có ít nhiều liên hệ với
phe mình tu theo đạo khác. Bút giả có người bạn xuất gia, tánh nhu hòa hiền
hậu, nhưng khi tu hành bị ngoại ma theo phá mãi. Tiếc vì ông bạn này còn vương
hạt giống ngoại đạo, không chí tâm dùng Phật pháp đối trị với tà pháp. Trong
lúc cùng quẫn vì ma phá, thầy đi nhiều nơi tìm sự cứu độ với các người tu theo
ngoại phái. Kết cuộc thầy lạc hẳn về ngoại đạo, bề ngoài là hình thức tăng già,
nhưng bên trong lại chuyên tu về luyện điển, bác phá sự lễ Phật tụng kinh, cho
là chấp tướng.
Lại có một nữ Phật tử, tánh tình rất tốt, song
thường lâm cảnh ngoại ma quấy nhiễu. Một độ nọ, trong lúc đang tu, cô bị ma
ngoại đạo vây khổn, và nghe tiếng nói: "Ông cha mi đều là người tu theo
phái Ngũ Hành của chúng ta, sao mi không trở về gốc cũ, lại đi theo đạo
Phật?" Cô kinh hãi chí tâm niệm Phật, mỗi câu niệm Phật thấy có một làn
ánh sáng phát ra che phủ thân mình, bọn ma không làm chi được. Chúng tức giận
bảo: "Mi đừng cậy có phép Phật mà tự đắc tự kiêu, sẽ có người trưởng
thượng của chúng ta đến đây cho mi biết thủ đoạn!" Nói xong, chúng liền
rút lui. Khi ấy cô bỗng nghe tiếng một vị thiện thần bảo: "Bọn chúng ganh
hờn vì cô quy y Tam Bảo, không theo đạo ông cha mà thờ cúng chúng nó. Ngay bây
giờ cả hai tay cô nên kiết ấn Kim Cang quyền, bấm ngón tay cái vào lóng gốc
ngón áp út và nắm chặt lại. Cứ giữ y như thế rồi thành tâm trì chú hoặc niệm
Phật mãi, vì giây lát sẽ có người lớn của bọn chúng đến đây, dùng phép ngũ lôi
đánh và bắt hồn cô. Vây cánh chúng rất đông, tôi chỉ giúp đỡ phần nào thôi, bởi
cô thế không làm sao xua đuổi bọn nó nổi. Sức của cô cũng chỉ có hạn, sợ e lâu
ngày chẳng kham chống trả, tốt hơn nên vào chùa tu mới tránh khỏi nạn." Cô
liền y theo lời dặn, nắm tay lại kiết ấn và trì chú Đại Bi. Giây lát bỗng nghe
tiếng ồn ào đông đảo, rồi có một làn chớp từ trên đánh xuống nặng nề như búa
bổ, nóng rát, rêm nhức cả đầu. Cô liền buông bỏ tất cả ý niệm, liều mạng chí
tâm trì chú, không còn biết cảnh giới bên ngoài ra sao, giây lâu nghe xung
quanh lặng lẽ, thân tâm trở lại trong trạng thái yên ổn bình thường.
Sau đó, cô nương vào chùa, nhưng vì còn bà thân già
hay đau yếu không ai săn sóc, nên bắt buộc phải về nhà lo phần sanh kế để phụng
dưỡng. Một khoảng thời gian cách xa không gặp lại, bút giả nghe tin cô hay nói
chuyện hư huyền, và xướng ra làm bịnh, biết cô chống không nổi nên đã bị ma ám
nhập, chỉ riêng thầm thương xót thở than! Cho nên những vị trước kia có liên hệ
với ngoại phái sau trở về tu Phật, nên nhìn gương trên mà lưu tâm cẩn thận.
Thiên Ma là loại ma ở cõi Tha Hóa Tự Tại, thuộc
tầng thứ sáu của trời Lục Dục. Loại ma này có phước báo, hưởng sự vui mầu nhiệm
cao tột của ngũ trần, cho đó là cảnh khoái lạc tuyệt đối, nắm quyền hạn về dục
nhiễm, không muốn ai thoát khỏi phạm vi ấy. Khi hành giả đạt đến mức tu khá
cao, tâm quang phát lộ, ánh sáng chiếu thấu lên cõi trời Tha Hóa làm cho cung
điện ma rung động, chúng liền phát giác và vì sợ e cho có người giải thoát,
quyến thuộc mình sẽ bị giảm bớt đi, nên tìm cách phá hoại. Chúng hiện ra nhiều
cảnh, hoặc hăm dọa, hoặc khuyến dụ, hoặc giúp cho sức tà định, tà trí cùng thần
thông cốt để gạt gẫm; lại thay phiên nhau rình rập không giây phút nào xa rời
để chờ cơ hội thuận tiện. Nếu hành giả có một niệm sơ hở, liền bị chúng ám
nhập, xúi giục làm những điều trái đạo đức, đời tu kể như đã hư tàn. Trong Luận
Khởi Tín, Mã Minh Đại Sĩ từng khuyên dạy:
"Trong khi hành giả tịnh tu, thường bị các thiên
ma, ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm não loạn. Chúng hiện các hình tướng ghê rợn để
khủng bố, hoặc tướng nam nữ xinh đẹp mong quyến rũ. Có khi chúng hiện thân
Phật, Bồ Tát hay chư Thiên đủ các tướng tốt trang nghiêm; hoặc nói các môn Đà
Ra Ni; hoặc nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí
huệ; hoặc nói các pháp bình đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, khen ngợi cảnh
không oán không thân, không nhân không quả, cứu cánh rỗng không vắng lặng, bảo
đó là chân Niết Bàn... Hoặc chúng làm cho hành giả biết đời trước của mình,
suốt việc quá khứ vị lai (túc mạng thông), thấu rõ tâm niệm mọi người (tha tâm
thông), cho đến được biện tài vô ngại. Chúng khiến người tu tham luyến danh lợi
thế gian, tánh tình thất thường, hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bịnh, dễ xót
thương xúc cảm, có khi rất tinh tấn, lắm lúc lại trễ nãi biếng lười. Hoặc chúng
xui hành giả sanh tâm nghi ngờ không tin, nhiều lo nghĩ, bỏ pháp tu căn bản trở
lại tu các tạp hạnh, đắm nhiễm những việc triền phược ở thế gian. Hoặc chúng làm
cho hành giả được một ít phần tương tợ như Tam Muội, có thể ở trong định từ một
ngày cho đến bảy ngày, thân tâm an vui không biết đói khát; song đó là do sức
tà chứng của ngoại đạo gia bị, không phải thật Tam Muội. Hoặc lại khiến cho
hành giả ăn uống không chừng độ, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn. Khi
gặp những cảnh như trên, người tu phải dùng trí huệ quán sát, gắng giữ chánh
niệm, đừng sanh tâm chấp trước mà lạc vào lưới tà. Phải kiên trì như thế mới xa
lìa được ma chướng."
Kết lại, nếu nói ước lược hơn, chỉ có Nội ma và
Ngoại ma; Thiên ma cũng nhiếp thuộc về loài Ngoại ma. Nhưng sở dĩ lập Thiên ma
thành một loại riêng, là vì muốn cho hành giả lưu ý đến sự phá hoại nguy hiểm
tinh vi của nó. Ngoài Phiền não ma, Ngoại ma, Thiên ma như trên, trong kinh còn
có nói Bịnh ma và Tử ma. Bởi cơn đau bịnh thường làm cho hành giả tiêu giảm
công phu, lại tu chưa đến đâu rồi chết có thể khiến người thối thất đạo quả,
nên mới gọi là "ma". Nhưng Bịnh ma và Tử ma, đại ý chỉ cho sự chướng
ngại của bịnh và chết thuộc thân tứ đại trên đường tu, không có tính cách phá
hoại khuấy rối để giết hại đạo tâm theo nghĩa "ma" chân thật. Vì thế
nên đây lược qua không đề cập đến.
Sức tu của người thời nay, phần nhiều bị Phiền Não
ma hoặc Ngoại ma phá hoại, chưa đủ để cho Thiên ma phải ra tay. Loại ma này chỉ
đến với những vị tu cao. Nếu Thiên ma quyết phá, những vị sức tu tầm thường khó
có hy vọng thoát khỏi. Trong Kinh Lăng Nghiêm, vì thương đường tu nhiều hiểm
nạn, đức Phật khuyên các hành giả tham thiền nên kiêm trì mật chú, để được nhờ
thần lực gia hộ, thoát khỏi nạn ma thành tựu chánh định. Ấn Quang đại sư đã
bảo: "Mới xem qua, dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm với Tịnh Độ,
nhưng xét nghĩ sâu mới thấy kinh này trong vô hình đã khen ngợi tuyên dương
Tịnh Độ. Tại sao thế? Bởi bậc đã chứng đệ tam thánh quả A Na Hàm, còn có thể bị
ma cảnh làm cho thối đọa; thì sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ càng nổi bật thêm
tánh cách trọng yếu, trong ánh sáng nhiếp hộ của đức A Di Đà không còn nạn
ma."
Cho nên xét luận trên đường hành đạo, khi chưa được
sanh về Cực Lạc, thì tu Tịnh Độ cũng có thể bị ma chướng. Song phần nhiều đó là
do hành giả không hiểu giáo lý, chẳng khéo trị tâm, để Nội ma phát khởi khiến
chiêu cảm Ngoại ma đến phá hoại. Nếu giữ được tâm bình tĩnh, thì với oai lực công
đức của câu hồng danh, ngoại ma không làm chi được, và phiền não cũng lần lần
tiêu trừ. Vì thế người tu Tịnh Độ, ma cảnh nếu có cũng là phần ít. Trái lại,
người tu thiền ma cảnh hiện nhiều, bởi chỉ nương vào tự lực. Bậc Thiền Sĩ phải
đủ năm điều kiện sau đây, mới mong đường tu được thành tựu: Một, là giới hạnh
tinh nghiêm; hai, căn tánh lẹ làng suốt sáng; thứ ba, phải hiểu rõ đạo lý, khéo
phân biệt tướng chánh, tà, chân, vọng; bốn, ý chí mạnh mẽ vững bền, và năm, là
phải nương bậc thiện tri thức thông kinh điển, đã có kinh nghiệm tu thiền nhiều
năm, để nhờ sự hướng dẫn. Nếu thiếu năm điều kiện đó tất dễ bị ma nạn. Tiên đức
đã bảo: "Khô mộc đường tiền thác lộ đa!" Câu này ý nói: trong cơ
Thiền có rất nhiều duyên lạc lối. Vì thế tu thiền muốn được thành tựu, phải là
bậc lợi trí thượng căn. Bậc tôn túc tông Thiền khi xưa, lúc truyền pháp cũng
căn dặn: "Phi bậc thượng thượng căn. Đừng dễ dàng hứa nhận" (Phi
thượng thượng căn. Thận vật khinh hứa). Lời nói này đủ chứng minh cho điều nhận
xét trên.
Trong Luận Khởi Tín, sau khi kết hợp tổng quát về
tinh yếu của pháp Đại Thừa, và trình bày xong đường lối tu tập, Mã Minh Bồ Tát
lại bảo: "Cõi Ta Bà phiền não cang cường, chánh tín khó vững, không thường
được gặp Phật nghe pháp, đường tu nhiều hiểm nạn chướng duyên. Nên biết Như Lai
có phương tiện thù thắng, dạy cầu sanh về cõi Tịnh Độ ở tha phương. Như trong
Khế kinh nói: Nếu chuyên tâm niệm Phật A Di Đà đem công đức tu hồi hướng cầu
sanh Tây Phương, thì sẽ được về thế giới Cực Lạc, thường thấy Phật nghe pháp,
không còn thối chuyển. Nếu hành giả y theo đường lối này tu tập, quyết định sẽ
được vào chánh định tụ."
Như trên, ta thấy chuyên tâm niệm Phật là phương
tiện mầu nhiệm để thoát khỏi nạn ma, mau thành tựu chánh định.
Niệm
Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
TÁM TƯỚNG THÀNH ĐẠO
Theo Đại-thừa là:
1. ĐÂU-SUẤT GIÁNG-THẦN
2. NHẬP-THAI
3. TRỤ-THAI
4. ĐẢN-SANH
5. XUẤT-GIA
6. THÀNH-ĐẠO
7. CHUYỂN-PHÁP-LUÂN
8. NHẬP NIẾT-BÀN
Trong tám điều nầy, Tiểu-thừa thêm tướng Hàng-ma mà không lập tướng Trụ-thai, vì cho trụ thai gồm trong ĐẢN-SANH; còn Đại-thừa thì không lập tướng Hàng-ma, vì biết rõ ma chính là Phật.
1. ĐÂU-SUẤT GIÁNG-THẦN
Hộ-Minh Bồ-Tát từ nơi pháp hội của đức Ca-Diếp-Thế-Tôn, giữ gìn cấm giới, phạm hạnh trong sạch, sau khi mạng chung, chánh niệm sanh lên cõi Đâu-Suất-Đà-thiên.
Sau khi vãng sanh, Bồ-Tát trụ nơi nội-viện thiên-cung. Các cung điện ở cõi Đâu-Suất ánh sáng huy hoàng, sự trang nghiêm tốt đẹp vô lượng vô biên. Đó đều do sức công đức oai thần của Hộ-Minh đại-sĩ mà tự nhiên hóa hiện. Các Đại-Phạm-thiên-vương và hàng A-tu-la oai đức lớn, đều vân tập nơi cung trời Đâu-Suất, vây quanh Bồ-Tát, thưa thỉnh pháp âm. Vô lượng chúng-sanh khi sanh lên cõi Đâu-Suất, thấy sự vui ngũ dục nhiệm mầu, phần nhiều đều mê nhiễm, không nhớ bản nguyện và hạnh tu đời trước. Bồ-Tát tuy thấy cảnh ngũ dục thắng diệu, song vẫn không mê hoặc, lại nhớ đến nhân duyên của mình vì dẫn dạy chúng-sanh nên mới ứng hiện nơi cõi nầy. Thọ mạng của chư thiên cõi Đâu-Suất đến bốn ngàn năm. Bồ-Tát vì hàng chư thiên ấy thuyết pháp giáo hóa, chỉ rõ pháp tướng, khiến cho đại chúng đều hoan hỷ.
(Kinh Phật-Bản-Hạnh)
Khi vận kỳ gần đến, sắp phải giáng sinh thành Phật, Bồ-Tát quán sát năm việc:
1. Căn duyên của chúng-sanh đã thuần thục hay chưa?
2. Đã đến thời kỳ hóa độ chưa?
3. Trong châu Diêm-Phù-Đề, quốc độ nào ở chính giữa?
4. Trong các chủng tộc, tộc tánh nào quí thạnh?
5. Về nhân duyên quá khứ, ai là bậc chân chánh, đáng làm cha mẹ mình?
Sau khi quán sát năm việc ấy xong, Ngài biết rõ: Hiện nay các chúng-sanh do mình giáo hóa từ khi mới phát tâm, thiện căn đã thuần thục. Đã đến thời kỳ những kẻ hữu duyên có thể lãnh thọ pháp mầu thanh tịnh. Trong cõi Đại-thiên-thế-giới nầy, nước Ca-Tỳ-La-Vệ ở giữa châu Diêm-Phù-Đề. Trong các chủng tộc, có họ Thích-Ca thuộc dòng Cam-Giá là quí thạnh nhất. Về nhân duyên quá khứ, Bạch-Tịnh-Vương và Ma-Gia hoàng-hậu là bậc hiền lương chân chánh, có thể làm cha mẹ mình.
(Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
2. NHẬP-THAI
Bấy giờ, Hộ-Minh Bồ-Tát xem xét con bạch tượng ở cõi trời, thấy nó mạnh mẽ vững vàng như sư tử chúa; cưỡi tượng vương nầy giáng sinh, tất không còn có sự rối loạn sợ hãi, tâm được an điềm. Ngài day lại bảo chư thiên rằng: “Các vị nên biết, đã đến giờ ta giáng sinh. Đây là lần thọ thân sau rốt của ta”.
Khi ấy nơi thành Ca-Tỳ-La, Ma-Gia hoàng-hậu trong giấc mơ, thấy có một vị Bồ-Tát cưỡi con bạch tượng sáu ngà, đầu voi ửng sắc đỏ, ngà trang nghiêm bằng vàng, từ hư không đi xuống, chun vào hông bên hữu của mình.
(Kinh Phật-Bản-Hạnh)
3. TRỤ-THAI
Có những chúng-sanh, khi nhập thai không thể chánh niệm; hoặc khi nhập thai chánh niệm, khi trụ thai không thể chánh niệm, hoặc khi nhập thai, trụ thai đều chánh niệm, khi xuất thai không thể chánh niệm.
Lại các chúng-sanh khác, khi trụ thai hoặc có lúc ở bên trái, có lúc ở bên mặt, làm cho người mẹ chịu rất nhiều sự nhọc nhằn đau đớn. Bồ-Tát khi trụ thai thường ở bên mặt, không di động, không làm tổn đến người mẹ.
Các chúng-sanh khác, khi trụ thai tất bị nhiễm các thứ không sạch trong thân người mẹ. Bồ-Tát khi trụ thai, không có sự kinh sợ, không bị nhiễm chất dơ, ví như bình báu lưu ly được áo trời gói kín, dù đem để chỗ dơ cũng không bị ô nhiễm.
Các chúng-sanh khác khi trụ thai, người mẹ thường chịu sự nặng nề, nhọc mệt, thân thể không an. Bồ-Tát khi trụ thai, người mẹ thân không mỏi mệt, khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghỉ đều được an vui.
Các chúng-sanh khác khi trụ thai, người mẹ hoặc làm những tạp hạnh, hoặc dục tâm hừng thạnh, hoặc thèm các mùi vị, hoặc tham lam bỏn xẻn, hoặc giận hờn độc ác, hoặc thân thể suy yếu, vàng võ gầy gò. Bồ-Tát khi trụ thai, người mẹ ưa giữ giới hạnh, không có lòng dục nhiễm, không tham đắm các mùi vị, ưa bố thí, hằng thương xót không làm tổn hại mọi loài, thân thể mạnh khỏe, dung sắc tươi vui.
Trên đây là những pháp vị tằng hữu của hàng Bồ-Tát.
(Kinh Phật-Bản-Hạnh)
4. ĐẢN-SANH
Hoàng-hậu Ma-Gia mang thai đã gần đủ ngày tháng (bấy giờ bà đã 45 tuổi). Khi ấy, Thiện-Giác trưởng-giả (Anusàkya - A-Nâu-Thích-Ca) sai sứ qua thành Ca-Tỳ-La tâu với Tịnh-Phạn-Vương, xin y theo cổ tục đem con gái về quê ngoại là xứ Câu-Ly (Koly - Câu-Lợi) an dưỡng để chờ ngày sanh. Tịnh-Phạn-Vương y lời, sai quan Hữu-Tư sửa sang con đường từ thành Ca-Tỳ-La đến thành Đề-Bà-Đà-Ha (Devadaha - Thiên-Tý-thành) cho bằng phẳng, trừ bỏ gai góc, sạn đá, quét dọn sạch sẽ. Vua lại bảo quan quân thể nữ sắp đặt xe báu, rải hương hoa, tấu các thứ âm nhạc, đưa Ma-Gia phu-nhân về quê.
Trên quãng đường về, hoàng-hậu ghé vào vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini) để thưởng ngoạn mùa hoa đang nở. Trong vườn có cây Ba-la-xoa (Sala - Vô-ưu), tàn che rộng rãi, cành rủ thấp bốn bề, hoa lá chen nhau, sắc xanh tím cùng chói dưới ánh triều dương, lộ vẻ muôn phần xinh đẹp. Hoa của loại cây nầy có mùi hương thanh nhẹ, bay lan theo làn gió thoảng, làm cho người thần trí vui tươi. Hoàng-hậu dạo xem khắp nơi, rồi lần chẫm rãi bước đến cội Vô-ưu, ngước mắt nhìn lên, đưa cánh tay mặt từ từ vịn cành cây xuống.
(Kinh Phật-Bản-Hạnh)
Khi ấy, ánh sáng rực rỡ bốn bề, cõi đất rung động sáu cách, Ma-Gia phu-nhân đã đản sanh ra Bồ-Tát. Bấy giờ, trời Đế-Thích đem hoa sen rải theo lối đi. Bồ-Tát chân đạp hoa sen, nhẹ đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, xướng lên rằng: “Đây là thân sau rốt của ta. Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quí hơn cả”. Lúc đó, trên hư không Long-vương phun hai thứ nước: ấm và mát, để tắm gội cho Bồ-Tát.
(Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự)
Tịnh-Phạn-Vương hay được tin ấy, liền nghiêm chỉnh đốn binh, cùng với quyến thuộc và một ức người Thích-chủng, đi đến vườn Lâm-Tỳ-Ni. Khi đến nơi, vua thấy Thái-tử tướng lạ trang nghiêm, vô cùng hoan hỷ!
Bảy hôm sau ngày sanh nở, hoàng-hậu Ma-Gia ly trần, sanh lên cung trời Đao-Lợi, hưởng phước tự nhiên, do bởi hoài thai Bồ-Tát công đức rất lớn.
(Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Thái-tử ở tại vườn Lâm-Tỳ-Ni đủ bảy ngày, rồi được đưa về thành Ca-Tỳ-La. Vua Tịnh-Phạn đặt tên cho Thái-tử là Tất-Đạt-Đa (Siddhàrtha - Nghĩa-Thành).
(Kinh Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)
5. XUẤT-GIA
Sau khi du ngoạn bốn cửa thành trở về, Ưu-Đà-Di thấy Thái-tử hằng trầm tư, sợ Ngài có quan niệm thoát tục, liền lựa dịp khuyên can: “Đại-vương dạy tôi làm bạn với Thái-tử, để có sự đắc thất thì khuyên nhủ cùng nhau. Mà đạo bằng hữu kết yếu lại chỉ có ba điều:
1. Nếu thấy có lỗi phải khuyên can nhau.
2. Thấy có việc tốt thì mừng cho nhau.
3. Gặp lúc nguy khổ, không rời bỏ nhau.
Nay tôi đem lời thành thật tỏ bày, mong Thái-tử chớ để tâm phiền trách: từ xưa đến nay, theo thông lệ, các bậc vương giả đều hưởng sự vui ngũ dục trước, rồi mới xuất-gia. Song đó chỉ là điều phụ, mà thật ra phần chính là: nhiệm vụ đối với việc trị nước an dân và bổn phận đối với gia đình, chủng tộc. Nay tôi xem ý Thái-tử dường như không thích con đường ấy, là bởi tại sao?” Thái-tử đáp: “Ta không bảo rằng thú ngũ dục không vui. Song thử hỏi: Các vị vương giả ấy bây giờ còn chăng? Và ở đâu? Hay là do say đắm theo dục lạc, gây nhiều nghiệp duyên tội chướng mà bị đọa lạc rồi? Ta không bảo việc trị nước an dân là không quan trọng, song địa vị quốc-vương dù không có người nầy, cũng còn lắm kẻ tài đức khác. Ta cũng không bảo tình nghĩa gia tộc là không thiết yếu, nhưng theo ý ta, đó là một tình thương và nhiệm vụ trong khuôn khổ nhỏ hẹp, sao bằng tình thương khắp cả sinh linh, nhiệm vụ cứu độ muôn loài thoát nẻo luân-hồi đau khổ?” Ưu-Đà-Di đem hết nguồn biện luận để khuyên ngăn, song rốt cuộc rồi cũng đuối lý.
(Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Sau khi suy nghĩ kỹ, muốn thoát khỏi nỗi khổ già, bệnh, chết, duy đường lối tu hành là có thể hy vọng, Thái-tử đã quyết chí xuất-gia.
Một hôm, thừa lúc Tịnh-Phạn-Vương vui vẻ, Thái-tử sửa y phục nghiêm chỉnh đến bạch rằng: “Thưa Phụ-vương! Giàu sang quyền thế, ngày kia sẽ hết; ân tình hội hợp, có lúc phải chia ly. Xin Phụ-vương cho con xuất-gia tu hành để độ thoát lấy mình, gia thuộc, và tất cả chúng-sanh”. Vua Tịnh-Phạn nghe nói, cả mình run rẩy, uất ức nghẹn lời, một viên đá bị chày Kim-cang đập nát thế nào thì tâm trạng buồn khổ, thất vọng, rã rời của ngài cũng như thế ấy! Vua cầm tay Thái-tử, lặng thinh giây lâu mới nói được một câu nho nhỏ: “Con nên bỏ ý kiến đó đi, đừng làm cho cha sầu não!” Thái-tử thấy Phụ-vương bi lệ không cho, bèn lạy chào trở về cung, âm thầm suy nghĩ phương pháp thoát ly.
Khi biết Thái-tử có chí xuất trần, vua Tịnh-Phạn cho quân ngày đêm canh giữ hoàng thành nghiêm nhặt. Ngài lại dặn công-nương Gia-Du-Đà-La và các nội quan trông chừng, nếu thấy Thái-tử có hành động gì khác thường, phải lập tức cho hay.
Một đêm, sau cuộc tiệc vui liên tiếp mấy hôm, tất cả đoàn âm nhạc ca vũ trong cung, cho đến công-nương Gia-Du-Đà-La đều mệt mỏi yên giấc. Riêng Thái-tử nằm trằn trọc không ngủ, Ngài suy nghĩ: “Ngày tháng chóng qua, tuổi xuân không trở lại, ta phải sớm thoát ly, không nên dần dà như thế nầy mãi”. Nghĩ đến đó, Ngài bỗng nghe văng vẳng có tiếng nói: “Những hạnh nguyện đã tu từ vô lượng kiếp đến nay, hiện đã tới thời kỳ thuần thục. Thái-tử nên mau xuất-gia, mọi việc đã có chúng tôi giúp đỡ”. Lúc ấy, công-nương Gia-Du-Đà-La bỗng chợt thức giấc, gọi Thái-tử nói với giọng đầy vẻ sợ hãi: “Thiếp vừa nằm mộng thấy liên tiếp ba điềm: Mặt trăng rơi xuống đất, gẫy một chiếc răng và rụng cánh tay mặt, không biết đó là triệu chứng gì?” Thái-tử an ủi: “Việc chiêm bao hư huyễn không thật, nàng hãy yên tâm nằm nghỉ”.
Đợi công-nương yên giấc xong, Thái-tử nhẹ bước ra ngoài, gọi kẻ hầu thân tín là Xa-Nặc (Chana) bảo thắng yên cương con bạch mã Kiền-Trắc đem đến, Xa-Nặc nghe nói kinh hãi, trong lòng dụ dự, nửa không dám trái lời vua dặn, nửa lại sợ oai lực Thái-tử, chỉ rơi nước mắt thưa: “Đang lúc giữa đêm, không phải giờ du ngoạn, cũng không phải vì đem quân ra ngăn giặc, chẳng hay có chuyện chi cấp thiết mà Đông-cung phải cần đến ngựa?” Thái-tử bảo: “Ta muốn vì tất cả chúng-sanh hàng phục giặc phiền não, ngươi chớ nên trái ý”. Biết không thể cưỡng được, Xa-Nặc sắp sửa yên cương, rồi thầy trò vượt ra thành. Do sức chư thần, nên quân canh gác đều ngủ mê man không hay. Con Kiền-Trắc chạy mau như gió, vừa lúc bình minh đã đến bờ sông A-Nô-Ma. Thái-tử xuống ngựa, cắt tóc, đem trân phục nơi thân đổi lấy bộ cà sa của người thợ săn dùng giả trang để bắn thú, hoàn thành hình tướng sa-môn. Xa-Nặc thấy thế, tỏ vẻ bi ai, quyến luyến! Thái-tử an ủi: “Ngươi chớ nên thương buồn, vì người đời có hợp tất có tan. Như khi ta mới sanh ra bảy ngày thì mẫu-hoàng đã mạng bạc. Rất đỗi mẹ con chí thiết, mà còn có lúc tử biệt vô thường, huống nữa là những tình trường riêng khác! Thôi ngươi hãy về đem ý ta thuật lại, nói ta có lời xin lỗi cùng phụ-hoàng, di-mẫu và tạm biệt công-nương”. Nói xong, Thái-tử xây mình chẫm rãi bước đi; Xa-Nặc đứng lặng lẽ trông theo cho đến khi Ngài khuất bóng.
(Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Lúc ấy, nhằm đêm mùng tám tháng hai, Thái-tử được 29 tuổi và đã có con là La-Hầu-La (Ràhula). (Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự - theo Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả thì Thái-tử xuất-gia lúc 19 tuổi; khi ấy công-nương Gia-Du mới có thai).
Vua Tịnh-Phạn hay con đã xuất-gia, liền cho năm người tôn thân là: Kiều-Trần-Như (Àjnàta - Kaundinya), A-Thấp-Bà (Asvajit - A-Thuyết-Thị), Bạt-Đề (Bhadrika), Ma-Ha-Nam (Mahànàma), Thập-Lực-Ca-Diếp (Dasabala Kàsyapa - Bạt-Đà) đi theo Thái-tử để làm thị-giả.
(Phật-Học-Đại-Cương)
6. THÀNH-ĐẠO
Sau khi hỏi đạo các nơi, không vị nào thuyết minh cho được thỏa mãn, Thái-tử đi lần đến tụ lạc Ưu-Lâu-Bệ-La (Uruvelà), bên mé sông Ni-Liên-Thiền (Nairanjanà) thuộc miền Ðông-bắc Ấn-Độ. Kế đó, Ngài vào vùng phụ cận là Khổ-hạnh-lâm, tu chung với hàng ngoại-đạo tại núi Tượng-Đầu, trong thời gian sáu năm. Mỗi ngày Thái-tử chỉ ăn một hạt mè, một hạt đậu, thân thể gầy ốm đến đỗi chỉ còn da bọc xương. Trong sáu năm ấy, Ngài chống đối với các quân ma phiền não như: quân tham dục, quân ưu sầu, quân đói khát, quân ái nhiễm, quân hôn thụy, quân sợ hãi, quân nghi hối, quân sân hận, quân bi thương, quân tự cao, quân tà mạng... Trải qua thời gian dài tinh tấn khổ nhọc như thế mà vẫn không được gì, Thái-tử phát kiến hai xu hướng sai lầm: cuộc sống quá phóng túng, hoặc trái lại quá khắc khổ, đều không phải là phương tiện giải thoát. Nhân đó, Ngài xuống sông Ni-Liên-Thiền tắm gội sạch sẽ, và thọ bát sữa cúng dường của mục nữ Thiện-Sanh (Sujàta - Tu-Già-Đà).
Sau khi thọ thực trở lại, khí lực và dung sắc Thái-tử lần lần phục hồi. Năm người thị-giả thấy thế, tưởng là Ngài đã thối chuyển, liền bỏ đi qua xứ Ba-La-Nại-Tư (Bàrànasì). Thái-tử một mình đi đến xứ Phật-Đà-Già-Da (Buddhagayà), rải cỏ kiết tường làm tòa, ngồi kiết già nơi gốc cây Tất-bát-la (Pippala), mặt hướng về phương Ðông. Trước khi thiền định, Ngài phát thệ rằng: “Nếu không chứng được đạo Vô-thượng-bồ-đề, thì dù thân nầy có tan nát, ta cũng quyết không rời khỏi nơi đây”. Phát nguyện xong, Thái-tử yên lặng vào cảnh thiền tư trong vòng 49 ngày.
(Kinh Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)
Đêm ấy, nhằm hôm mùng tám tháng chạp, sau khi hàng phục ma quân, Thái-tử ngồi lặng lẽ trong thiền định.
Vào khoảng canh hai, Ngài chứng được Túc-mạng-minh, thấy biết nghiệp nhân của mình và tất cả chúng-sanh nhiều đời về trước, từ việc làm lành làm dữ, cha mẹ quyến thuộc, giàu sang nghèo hèn, thọ yểu xấu đẹp, cho đến mỗi đời tên họ là gì, đều biết rành rẽ.
Đến nửa đêm, Ngài chứng được Thiên-nhãn-minh, thấy rõ ba cõi sáu đường, những cảnh giới hoặc an vui, hoặc nhơ khổ, chúng-sanh hoặc xinh đẹp, hoặc xấu xa, rõ ràng như nhìn vào trong gương.
Và đến lúc sao mai mọc lên, Ngài chứng được Lậu-tận-minh, dứt sạch phiền não, rõ hết đầu mối nghiệp duyên, tâm thể lặng yên sáng suốt. Bấy giờ ngài đã thành Phật.
Nội dung của sự giác ngộ chân chánh nầy, có thể giải đáp vấn đề nhân sanh một cách mỹ mãn. Trước kia Ngài thắc mắc về hai yếu điểm:
1. Già, bệnh, chết và tất cả sự ràng buộc khổ não của kiếp người do đâu mà có?
2. Làm thế nào để giải thoát những điều ấy?
Và đây là lời giải đáp:
1. Do Vô-minh làm mê mờ bản thể, nên mới có sanh, già, bệnh, chết, lo thương buồn rầu.
2. Muốn được giải thoát phải có chánh kiến dứt trừ phiền não, trở về bản tánh, tức là phải tu theo con đường Bát-chánh.
Đây là đạo lý căn bản của Phật-giáo Nguyên-thủy, khái quát cả pháp môn Tứ-diệu-đế và Thập-nhị-nhân-duyên.
Thái-tử Tất-Đạt-Đa thành đạo vào lúc 35 tuổi (có thuyết nói 30 tuổi), thánh hiệu là Thích-Ca-Mâu-Ni Như-Lai (Sàkyamuni - Năng-Nhân-Tịch-Mặc).
(Phật-Học-Đại-Cương)
7. CHUYỂN-PHÁP-LUÂN
Bấy giờ Ðức Thế-Tôn bảo năm người rằng: “Các ông chớ nên xưng Như-Lai là Trưởng-lão mà phải gọi là Phật, vì Như-Lai đã được Nhất-thiết-trí, đã chứng pháp cam lồ, đã dứt hết nghiệp hữu lậu, đã vắng lặng tự tại. Hãy đến đây, ta sẽ nói phương pháp tu hành, khiến cho các ông hiện đời được trí huệ sáng suốt, dứt hết phiền não, thành tựu phạm hạnh và không còn thọ thân hậu-hữu. Năm người nghe nói đều sanh lòng vui mừng, chiêm ngưỡng tôn nhan, lặng yên trông chờ diệu pháp.
(Kinh Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)
Đức Phật nói tiếp: “Người xuất-gia có hai thứ chướng: Một là đắm theo dục cảnh không cố gắng thoát ly, đó là không phải là nhân giải thoát. Hai là không chịu suy nghĩ chín chắn, tự làm khổ thân mình để cầu thoát ly, đó cũng không phải là nhân giải thoát. Phải lìa hai lỗi thái quá, giữ theo mực trung mà tinh cần tu tập, mới có thể đến Niết-bàn”. Kế đó Phật lại ba lần chuyển pháp-luân Tứ-Đế (thị-chuyển, khuyến-chuyển, chứng-chuyển). Bọn ông Kiều-Trần-Như năm người đều chứng quả A-la-hán, tám muôn na-do-tha chư Thiên ở trên không nghe pháp mầu, đều được pháp nhãn tịnh.
Lúc ấy năm người đã thấy đạo tích, liền đảnh lễ nơi chân Phật mà thưa rằng: “Bạch Thế-Tôn! Hôm nay chúng con muốn xuất-gia tu hành ở trong Phật-pháp”. Đức Phật bảo: “Thiện lai Tỷ-khưu!” Liền đó, râu tóc năm người đều tự rụng, y phục nơi thân hóa thành áo cà sa. Bấy giờ thế gian mới có Tam-bảo: Đức Phật là Phật-bảo, pháp-luân Tứ-đế là Pháp-bảo, năm vị A-la-hán là Tăng bảo.
(Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)
Chuyển pháp-luân là thế nào? Chữ “Pháp” nguyên ngữ là Đạt-ma (Dharma), có nghĩa: pháp luật, pháp tắc, là chân lý căn bản của muôn sự muôn vật. Chữ “Luân” nguyên ngữ là Chước-ca-la (Cakra), là môn vũ khí hình như bánh xe của Luân-vương dùng khi dẹp giặc. Khi bậc Luân-vương có oai đức lớn ra đời, thì trên hư không có bánh xe ấy xuất hiện; vua dùng bánh xe nầy đem quân binh bay đi đánh chỗ nào, giặc nơi ấy đều tan rã. Vì thế, cổ thuyết Ấn-Độ thường gọi vị vua lớn chinh phục bốn phương là Chuyển-pháp-luân-vương. Giáo pháp của Đức Phật nói ra có thể phá tan điều ác cùng tà thuyết của ngoại-đạo, nay đem ví giáo pháp ấy như bánh xe của Luân-vương, nên khi Phật thuyết pháp gọi là Chuyển pháp-luân.
(Phật-Học-Đại-Cương)
Đức Phật bảo:
- Các đấng Như-Lai nói ra điều chi, đều gọi là chuyển pháp-luân. Nầy Thiện-nam-tử! Ví như luân-bảo của thánh-vương có công dụng: những kẻ chưa hàng phục, đều có thể hàng phục; những kẻ đã hàng phục, hay khiến cho được an ổn. Pháp của chư Phật nói cũng như thế, vô lượng phiền não chưa điều phục, đều có thể điều phục; đã điều phục, hay khiến cho sanh căn lành.
Nầy Thiện-nam-tử! Ví như luân bảo của thánh-vương hay tiêu diệt tất cả oán tặc; Như-Lai thuyết pháp cũng lại như thế, hay khiến cho các mối giặc phiền não thảy đều lặng yên.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Ví như luân bảo của thánh-vương có thể xoay vần, lên xuống; Như-Lai thuyết pháp cũng lại như thế, hay khiến cho những chúng-sanh ở các cõi dưới sanh lên nẻo nhơn thiên, cho đến khi thành Phật đạo.
(Kinh Đại-Bát-Nhã-Niết-Bàn)
Khi ấy, Thắng-Nghĩa-Sanh Bồ-Tát thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Ban sơ nơi Lộc-dã-uyển, Ngài chỉ vì hạng người xu hướng về Thanh-Văn-thừa mà chuyển pháp-luân Tứ-đế. Pháp-luân nầy tuy kỳ đặc ít có, song cũng chưa liễu nghĩa, bởi còn có pháp khác cao thượng, bao quát hơn. Đó là chỗ mà các nguồn tranh luận có thể len lỏi vào.
Trong kỳ thuyết pháp thứ hai, Thế-Tôn vì hạng người phát tâm Đại-thừa, nói tất cả pháp đều không tự tính, không sanh diệt, bản lai là Tự-tính-niết-bàn vắng lặng. Lối chuyển pháp-luân bằng tướng ẩn mật nầy tuy rất kỳ đặc ít có, song cũng chưa liễu nghĩa, bởi còn có pháp khác cao thượng, bao quát hơn. Đó là chỗ mà các nguồn tranh luận có thể len lỏi vào.
Hôm nay, trong kỳ thuyết pháp thứ ba, Ngài vì hạng người cầu Nhất-thiết-thừa, nói tất cả pháp đều không sanh diệt, bản lai là thể Tự-tánh-niết-bàn-vô-tự-tánh vắng lặng. Lối chuyển pháp-luân bằng tướng hiển liễu nầy, thật kỳ đặc ít có bậc nhất, vì là pháp chân liễu nghĩa, không còn chi cao thượng bao quát hơn. Các nguồn tranh luận cũng không còn chỗ nào len lỏi vào được.
(Kinh Giải-Thâm-mật)
8. NHẬP NIẾT-BÀN
Khi nghe Ðức Thế-Tôn bảo rằng mình sắp nhập diệt, Diệu-Tràng Bồ-Tát khởi lòng nghi: “Có hai nhân duyên được sống lâu: không giết hại và bố thí các thức ăn cho chúng-sanh. Ðức Thích-Ca Thế-Tôn đã tu Thập-thiện trong vô lượng kiếp, tại sao Ngài chỉ sống có tám mươi tuổi?”
Trong khi Bồ-Tát nghĩ như thế, do oai thần của Phật, tịnh thất ấy bỗng hiện ra rộng rãi trang nghiêm như cõi Tịnh-độ. Trên hư không, phương đông có Phật Bất-Động, phương nam có Phật Bảo-Tướng, phương tây có Phật Vô-Lượng-Thọ, phương bắc có Phật Thiên-Cổ-Âm, ngồi nơi tòa diệu liên hoa, đồng thuyết kệ rằng:
Có thể biết điểm giọt
Của tất cả biển lớn
Không ai đếm biết được
Thọ lượng của Thích-Ca.
...Có thể biết số bụi
Của tất cả đại địa
Không ai đếm biết được
Thọ lượng của Thích-Ca.
Bốn đức Thế-Tôn lại bảo:
- Nầy Thiện-nam-tử! Chúng-sanh ở cõi Ta-Bà căn lành kém mỏng, có nhiều sở chấp: nhân, ngã, đoạn, thường... Vì muốn cho họ được lợi ích, mau sanh chánh giải, nên Phật Thích-Ca-Mâu-Ni thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Thiện-nam-tử! Đức Như-Lai đây muốn cho chúng-sanh thấy Phật vào Niết-bàn, sanh lòng thương lo mến tiếc, nghĩ rằng khó còn được gặp, mà đối với chánh-pháp phát tâm siêng năng đọc tụng thọ trì, vì người giảng giải, không còn hủy báng, nên Ngài thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Tại sao thế? Nếu chúng-sanh thấy Như-Lai không vào Niết-bàn, tất không sanh lòng cung kính, không sanh niệm khó gặp, không siêng năng đọc tụng thọ trì vì người giảng giải; vì lẽ hằng thấy Phật nên ỷ lại xem thường. Ví như hoa Ưu-đàm được người quí trọng vì lâu năm mới nở một lần, nhân duyên sớm nhập diệt của Ðức Thích-Ca Như-Lai, ý nghĩa cũng như thế.
(Kinh Kim-Quang-Minh)
Một hôm, Ðức Thế-Tôn cùng thị-giả A-Nan-Đà ở ngôi giảng đường tại thành Ba-Tra-Lỵ-Phất (Hoa-Thị-thành). Sau khi đi khất thực trở về dùng ngọ trai xong, Đức Phật đến ngồi nơi cội cây Cung-chế-để, rồi gọi A-Nan-Đà mà bảo rằng: “A-Nan! Thành nầy vật sản hoa lệ, cây cối tốt tươi, ao suối trong mát, hiện tại tuy đơn sơ, nhưng tương lai tất sẽ hưng thạnh. Đây là một kỳ cảnh của châu Nam-Thiệm-Bộ. Nầy A-Nan! Nếu kẻ nào chứng pháp Tứ-thần-túc, có thể tùy ý trụ thọ một kiếp cho đến nhiều kiếp. Như-Lai đã chứng pháp Tứ-thần-túc, nên muốn sống lâu một kiếp hay nhiều kiếp, đều được tự tại”. Phật nói như thế ba lần, song ngài A-Nan vẫn làm thinh.
Lúc ấy, Thiên-ma Ba-Tuần đến đảnh lễ Phật và thưa rằng: “Bạch Thế-Tôn! Thời gian trước Ngài đã nói: khi nào trong hàng môn đệ có nhiều kẻ thông biện đủ khả năng tuyên dương chánh-pháp dẹp phá tà luận thì Ngài sẽ vào Niết-bàn. Hiện thời những điều kiện ấy đã có đủ, xin Ðức Thế-Tôn nên sớm nhập diệt”. Đức Phật bảo: “Ngươi hãy gắng chờ ít lâu, ba tháng sau Như-Lai sẽ vào cảnh Vô-dư-y-đại-niết-bàn”. Thiên-ma Ba-Tuần nghe Phật hứa nhận, sanh lòng vui mừng, liền ẩn thân trở về thiên giới. Sau khi nói lời ấy, Ðức Thế-Tôn liền nhập định, thâu ngắn thọ mạng trong vô lượng kiếp chỉ còn lại ba tháng. Lúc đó, đất đai chấn động, tinh quang rơi rớt khắp bốn phương, thiên cổ trên hư không tự nhiên kêu lên vang động. Ðức Thế-Tôn xuất định, nói bài kệ rằng:
Tất cả pháp sai biệt
Như-Lai đã diệt trừ
Do đó được định tâm
Như chim bay tự tại.
Sau khi ấy, Đức Phật cùng đồ chúng vượt qua sông Hằng, vào thành Tỳ-Xá-Ly. Nơi đây, nàng kỹ nữ Yêm-Ma-La dâng cúng khu vườn Nại-Thọ-lâm và được Phật hóa độ. Bấy giờ đã đến mùa mưa, Ðức Thế-Tôn muốn an-cư ba tháng ở Trúc-Lâm-thôn (Veluvana), một vùng phụ cận của đô thành. Nhưng gặp năm mất mùa, e sự cúng dường không được đầy đủ, Phật liền giải tán đại chúng, rồi riêng mình ở tại đó với thị-giả A-Nan. Trong thời gian tạm trú nơi đây, ngài A-Nan thấy kim thể không an, biết Phật sắp vào Niết-bàn, liền thưa thỉnh cách thức y chỉ về sau. Đức Phật bảo: “Ông nên lấy chính mình làm nơi quy-y, lấy pháp làm nơi quy-y, đừng nương theo ai khác bên ngoài. Hãy tự xét, xem mình tinh tấn hay giải đãi, dứt trừ sự tham nhiễm lo buồn theo thế gian. Hãy quán thân, thọ, tâm, pháp, thấu triệt lý bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã, để đối trị bệnh chấp tịnh, lạc, thường, ngã, theo quan niệm chúng-sanh. Đây là chân lý tự quán của ta khi thành chánh giác và cũng là căn bản quy-y của người học đạo”.
Mãn ba tháng hạ, Ðức Thế-Tôn đến ở Trùng-Các-giảng-đường tại bản xứ. Ngài bảo các đệ-tử: “Những giáo pháp ta đã nói khi trước như: Tứ-niệm-trụ, Tứ-chánh-cần, Tứ-thần-túc, Ngũ-căn, Ngũ-lực, Thất-giác-chi, Bát-thánh-đạo, các ông nên thường suy nghĩ tu tập, chớ nên biếng trễ. Các ông phải gắng tu tịnh hạnh, giữ gìn cấm giới để làm phước lợi cho thế gian”. Rồi từ đó, Đức Phật lại đi về phía Bắc, qua thôn Lộ-Càn-Trà (Bhandagama). Tại nơi đây, Ngài lại khuyên đồ chúng: “Các ông nên biết, nếu người tu không thông đạt bốn pháp, sẽ hằng bị đọa vào nẻo luân-hồi. Bốn pháp ấy là gì? Chính là giới, định, huệ và giải thoát”. Từ thôn Lộ-Càn-Trà, Ðức Thế-Tôn đi vào xứ Ba-Bà (Pàvà). Ở chốn nầy, Ngài thọ thức ăn nấu bằng nấm chiên đàn của người thợ bạc tên là Thuần-Đà (Cunda), rồi đi sang thành Câu-Thi-Na-Yết-La đến chỗ hai đôi cây Sa-la bên mé sông Hi-Liên-Nhã-Bạt-Để (Kim-hà).
Đêm ấy, có người ngoại-đạo là Tu-Bạt-Đà-La (Subhadra) đi đến chỗ Ðức Thế-Tôn, nghe thuyết pháp và chứng thánh-quả. Đây là vị đệ-tử sau rốt của Phật. Ðức Thế-Tôn gọi A-Nan và bảo: “Thuở xưa ta làm Chuyển-luân-vương, đã xả thân sáu lần nơi đây, cho nên nay Như-Lai cũng nhập Niết-bàn tại chỗ nầy”. Ngài lại bảo đồ chúng: “Các ông đối với Phật, Pháp, Tăng bảo và Tứ-thánh-đế có điều gì nghi thì nên hỏi, ta sẽ giải đáp cho”. Trong đại chúng vì không nghi vấn nên không ai hỏi.
Bấy giờ Ðức Thế-Tôn do lòng đại bi, tự cởi áo trên bày kim-thân ra, và nói: “Nầy Tỷ-khưu! Các ông nên nhìn kỹ thân tướng của Như-Lai, vì chư Phật cũng như hoa Ưu-đàm-bát-la rất khó gặp gỡ”. Khi sắp nhập diệt, Đức Phật còn bảo: “Các ông chớ cho rằng mình sẽ mất thầy giảng dạy. Sau khi ta nhập Niết-bàn, những Pháp (Dharma) và Luật (Vinaya) của ta đã nói là thầy của các ông. Các pháp đều vô thường, có sanh tất có diệt; các ông hãy tinh tấn chớ nên biếng trễ. Đây là lời khuyên dạy sau rốt của ta”.
Khi nói xong lời ấy, Ðức Thế-Tôn nhập Tam-muội theo thứ lớp chín lần thuận, chín lần nghịch, từ Sơ-thiền đến Diệt-tận-định; rồi từ Sơ-thiền ra, Phật vào Nhị-thiền, Tam-thiền, Tứ-thiền, và niết-bàn ở nơi đó. Lúc ấy, vào khoảng giữa đêm Rằm tháng hai, Ngài được tám mươi tuổi.
(Đối chiếu các kinh: Đại-Niết-Bàn, Du-Hành, Trường-A-Hàm)
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Comments
Post a Comment