Shurangama Mantra with Verses and Commentary

by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua




252. RA XOA TƯ YẾT RA HA

囉叉私囉訶

RAKSASA GRAHĀ

 

 

Tốc tật khả uý La Sát quỷ

Thủ cung phụ nữ bảo kiên trinh

Diệt trừ nhất thiết phi mạng nạn

Viễn ly hiểm đạo miễn lôi truy.

 

速疾可畏羅

守宮婦女保堅貞

滅除一切非命難

遠離險道免雷追



Speedy and terrifying rakshasa ghosts

Guard the ladies-in-waiting and protect their chastity.

They eradicate all life-threatening disasters,

So one escapes perilous paths and is not struck by lightning.



  ŌM! RA XOA TƯ YẾT RA HA


Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm


Hán dịch: Dao Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Giảng Thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành.


Kinh văn:

"Hoặc cõi nước tam thiên đại thiên đầy dẫy cả Dạ-xoa, La-sát muốn đến hại người, nghe có người xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ tợn để nhìn huống chi là gia hại. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân mình, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì xiềng xích đứt hết, liền được giải thoát".

Ðoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. "Hoặc cõi nước tam thiên đại thiên". Sao gọi là cõi nước tam thiên đại thiên ? Nhân vì ba "thiên" (ngàn) nên gọi là cõi nước tam thiên đại thiên. Thế giới chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn : Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Ðông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. "Một" đây là chỉ cho một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu. Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một cái tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới. Vì có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới.

"Ðầy dẫy cả Dạ-xoa La sát" : Ở trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa. Quỷ Dạ-xoa có những loại : Phi hành dạ-xoa, Ðịa hành dạ-xoa và Không hành dạ-xoa. Loại quỷ này chạy đi rất nhanh, hỏa tiễn bây giờ cũng chạy không kịp tốc độ của nó, vì thế nó còn có tên là Tốc tật quỷ hay Tiệp tật quỷ. La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. "Muốn đến hại người": Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng tìm cách quấy rầy người. Như bạn muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, chúng cố ý gây rắc rối cho bạn,và nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến bạn không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quý vị đã phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quý vị làm cho quý vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: "Tu hành làm chi ! Học Phật pháp để làm gì ! Thôi đừng nên học Phật pháp nữa ! Ði chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ý mình, thích nhảy đầm thì nhảy, thích nghe âm nhạc thì nghe. Còn học Phật ư ! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử ! Phật pháp quả là càng học càng rắc rối !" Ai có ý nghĩ đó thì là quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia làm hòa thượng. Nó xui vị ấy nghĩ : "A, làm hòa thượng cực lắm ! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức ! Ði tu để làm gì ?" Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: "Ối chào ! Nên đi lấy chồng đi ! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa lòng thích ý hơn". Làm cho quý vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. Vì thế nói : "Muốn đến hại người".

"Nghe người xưng niệm danh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm". Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quý vị niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" thì "những ác quỷ ấy còn không dám lấy mắt dữ tợn để nhìn". Một khi quý vị niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nhìn quý vị cũng không nhìn thấy được. Vì chúng thấy quý vị có ánh sáng chói lòa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là : "Còn không thể lấy mắt dữ tợn để nhìn". - "Huống là gia hại" : Cả đến mắt cũng không thể mở thì làm sao gia hại được ? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. Vì thế quý vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì mới được Ngài bảo hộ cho.

"Giả sử lại có người", là giả sử còn có một người. "Hoặc có tội hoặc không tội" : Không luận là có tội hay không. "Bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân mình" : Người có tội tất nhiên bị chính phủ bắt giư,õ bị còng tay, mang gông, đóng trăn. Người "có tội" là chỉ người phạm tội,; còn người "không tội" là chỉ người bị oan uổng, bị vu cáo, bản thân không phạm phải tội lỗi, nhưng bị chính phủ bắt giữ cầm tù trong ngục, tay mang còng, chân mang gông. Gông cùm xiềng xích là những hình cụ xử phạt mà tội nhân phải mang, nó dùng để trói buộc người. "Nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm" : Nếu ngay lúc đó người ấy có thể xưng niệm "Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm Bồ-tát". "Thì thảy đều đứt lìa" : Những thứ hình cụ gông cùm xiềng xích này bèn tự nhiên bị gãy đứt. "Liền được giải thoát" : Tức thời được giải thoát tự do ngay vì còng tự động đứt, gông tự nhiên mở. Nói tóm lại, bất cứ hình cụ nào đang ở trên thân đều tự nhiên rơi rụng xuống. Việc này tôi đã chứng kiến rất nhiều. Có lần đó, tôi ở chùa Nam Hoa, vào thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, tôi gặp một vị Sư bị quân Nhật bắt giam vào ngục, tay chân đều bị xiềng xích cả. Vị Sư ấy ở trong ngục suốt ngày đều niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm liên miên không dứt. Vào một buổi chiều, bỗng nhiên những gông cùm trên thân Sư đều bị gãy đứt, cửa ngục cũng tự động mở ra nên trốn thoát được.

"Nếu trong cõi nước tam thiên đại thiên đầy cả oán tặc, có một vị thương chủ dẫn các lái buôn mang theo hàng quý báu đi qua đường hiểm trở. Trong đó có một người xướng rằng : Này các người, chớ có sợ hãi ! Các người hãy nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm đi. Vị Bồ-tát ấy hay ban cho chúng sanh niềm không lo sợ. Các người nếu xưng danh hiệu Ngài thì sẽ thoát khỏi các oán tặc này. Mọi người nghe nói đều cất tiếng niệm : ỔNam mô Quán Thế Âm Bồ-tátỖ. Do nhờ xưng niệm danh hiệu mà được giải thoát".

"Nếu trong cõi nước tam thiên đại thiên" : Giả sử trong cõi nước của tam thiên đại thiên này. "Ðầy cả oán tặc" : Bất cứ chỗ nào trong cõi nước tam thiên đại thiên này đều có oán tặc. Oán tặc là ngày xưa họ có oan trái với quý vị nên đời này làm giặc để cướp của cải quý vị. "Có một vị thương chủ dẫn các lái buôn mang theo hàng hóa đi qua đường hiểm trở" : Có một người buôn bán dẫn theo rất nhiều người lái buôn, lại có mang theo rất nhiều bảo vật giá trị phi thường, đi qua một nơi có nhiều giặc cướp thổ phỉ. "Trong đó có một người xướng lên rằng: 'Này các người, chớ sợ hãi! Các người hãy nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm đi. Vị Bồ-tát ấy hay ban cho chúng sanh niềm không lo sợ. Các người nếu xưng danh hiệu Ngài thì sẽ thoát khỏi các oán tặc này'": Nhưng trong số những người lái buôn đó có một người đề nghị với mọi người như thế này : "Thưa quý ông, quý anh em, quý bạn ! Các người đừng nên sợ hãi. Mọi người chúng ta nên nhất tâm chuyên niệm 'Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát' đi, vì vị Bồ-tát này hay dùng tinh thần vô úy bảo hộ cho tất cả chúng sanh. Hiện tại mọi người chúng ta nếu hay niệm danh hiệu Ngài thì hiện tại chúng ta gặp bọn oán tặc, chúng ta tự nhiên được thoát nạn mà không phải bị thổ phỉ cướp giựt hay giết hại". "Mọi người nghe nói đều cất tiếng niệm : 'Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát'. Do nhờ xưng niệm danh hiệu mà được giải thoát" : Những người lái buôn kia nghe nói rồi đều đồng loạt cất tiếng niệm : "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát". Nhờ niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm mà được thoát khỏi nạn oán tặc, không bị thổ phỉ cướp giựt. Nhơn vì có sự linh cảm không thể nghĩ bàn ấy nên mỗi người đều phải thành tâm thật ý xưng niệm danh hiệu Ngài, chớ có hoài nghi.

"Này Vô Tận Ý ! Ðại Bồ-tát Quán Thế Âm có sức oai thần cao vọi như thế".

Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni sau khi giảng giải lý lẽ như trên xong, lại gọi tiếp : "Này Vô Tận Ý ! Sức oai thần của Bồ-tát Quán Thế Âm thật là rộng lớn cao cả !" Nói mãi không rồi, giảng hoài không hết.



Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.


Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.

Quán Thế Âm Ðại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta Bà này đều gọi Ngài là vị "Thí Vô Úy".



GIỚI SÁT

 

"A-nan, lại các chúng-sinh lục-đạo trong các thế-giới, nếu cái tâm không sát, thì không theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng sát, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn lòng sát, thì chắc phải lạc vào thần-đạo; người bậc trên thì thành đại-lực-quỷ, người bậc giữa thì thành phi-hành-dạ-xoa và các loài quỷ-soái, người bậc dưới thì thành địa-hành la-sát, các loài quỷ-thần kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều quỷ-thần nầy sôi-nổi trong thế-gian, tự nói rằng ăn thịt, được đạo Bồ-đề. A-nan, tôi khiến hàng tỷ-khưu ăn năm thứ tịnh-nhục, thịt kia đều do thần-lực tôi hóa-sinh ra, vốn không có mạng-căn. Xứ Bà-la-môn các ông, đất-đai phần nhiều nóng-ướt, lại thêm cát đá, rau-cỏ không sinh được; tôi dùng sức đại-bi gia-bị, nhân sức đại-từ-bi, giả gọi là thịt và các ông cũng nhận được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như-lai diệt-độ, người ăn thịt chúng-sinh, lại gọi là Phật-tử! Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai-ngộ, giống như Tam-ma-đề, đều là loài la-sát, quả-báo hết rồi, phải chìm-đắm trong bể khổ, không phải đệ-tử Phật. Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được ra khỏi ba cõi. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, thứ nữa, phải đoạn lòng sát. Ấy gọi là lời dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ hai của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.

Vậy nên A-nan, nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền-định, thì cũng ví-như có người tự bịt lỗ tai, cất tiếng kêu to mà trông-mong người khác không nghe; bọn này gọi là muốn giấu thì càng lộ. Hàng tỷ-khưu thanh-tịnh và các vị Bồ-tát đi trong đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ; làm sao đức Đại-bi, lại lấy máu thịt của các chúng-sinh, mà làm đồ-ăn?

Nếu các hàng tỷ-khưu không mặc những đồ tơ-lụa, là-lượt phương Đông và không dùng những giày-dép, áo-cừu, áo-len hay các thứ sữa, phó-mát, đề-hồ, thì những tỷ-khưu như thế, đối với thế-gian, thật là giải-thoát, trả hết nợ cũ xong, thì không vào trong ba cõi nữa, vì cớ sao? Dùng những bộ-phận thân-thể chúng-sinh, thì đều bị ảnh-hưởng chúng-sinh, cũng như con người ăn giống bách-cốc trong đất, thì chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm, đối với thân-thể hay bộ-phận thân-thể của chúng-sinh, đều không mặc, không ăn, thì những người như thế, tôi mới gọi thật là giải-thoát. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."


Comments

Popular posts from this blog