Shurangama Mantra with Verses and Commentary

by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua





438. GIÀ BÀ HA RA

伽婆訶囉

GARBHA HĀRĀ

 

 

Đại Không Vương Phật chủ uy thần

Hàng phục hấp thai ác tánh linh

Đãn nguyện chúng sanh đồng hướng thiện

Phùng hung hóa cát ngộ cứu tinh.

 

大空王佛主威神

降伏吸胎惡性靈

但願眾生同向善

逢凶化吉遇救星




UM! GIÀ BÀ HA RA.

HÀNG PHỤC QUỶ ĂN THAI, 

PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, TU BỒ-TÁT ĐẠO, THÀNH NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.



NGHĨA QUYẾT ĐỊNH VỀ ĐOẠN TÂM GIẾT HẠI


Này A-nan, lại chúng sanh trong sáu đường trên các thế giới, không có tâm sát hại thì không theo đó mà tiếp tục sanh tử. Ông tu chánh định vốn muốn ra khỏi trần lao, không trừ tâm sát hại thì không thể ra khỏi trần lao. Dù có nhiều trí tuệ, thiền định hiện tiền, nếu không dứt trừ tâm sát ắt rơi vào thần đạo. Người bậc trên thành đại lực quỷ, bậc giữa làm phi hành dược-xoa, các loài quỷ soái v.v..., bậc dưới làm địa hành la-sát.

Đây cũng là quỷ nhưng gọi là thần. Thần và quỷ đều là người âm, nếu ít phước thì gọi là quỷ, còn có phước và có uy lực hơn gọi là thần. Ví dụ những người đi đánh giặc thắng trận chết được phong thần. Đó cũng là quỷ thôi, ở trong nghiệp quỷ nhưng có uy lực, có đồ đệ sai khiến được.

Phi hành dược-xoa là loài dược-xoa bay đi trong không. Địa hành la-sát là loài la-sát đi dưới đất không bay được.

Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự cho là đã thành đạo Vô thượng. Sau khi ta diệt độ, ở trong đời mạt pháp, phần nhiều các loại quỷ thần này hưng thịnh ở thế gian, tự nói ăn thịt được đạo Bồ-đề.

Qua những kinh nghiệm trên thế gian, chúng ta thấy có những người tu thành quỷ thần, người ta hay gọi là bề trên, ở cõi trên. Những người đó tự cho mình đã được đạo, họ tự mãn trong cảnh của họ chứ không thấy rằng mình là quỷ thần. Do vậy họ cũng thâu đồ đệ, khi dựa ai, bắt ai, phá ai, họ cũng nói đi theo con đường của họ sẽ được an vui sung sướng.

Như hôm rồi, có một cô tự xưng là mẹ trên sai xuống, dựa vào một người đàn bà, đến chỗ tôi nói rằng cô muốn đi giáo hóa những người này người kia, hướng dẫn họ về hầu mẹ. Như vậy những người trên kia sai đồ đệ họ xuống. Họ tưởng là họ đang giáo hóa mọi người, cho về trên kia hưởng cảnh thanh nhàn sung sướng, chứ không nghĩ họ cũng đang đi trong đường quỷ thần. Vì vậy rất dễ bị lầm. Quý vị nào có nghiên cứu kỹ các tôn giáo ở Việt Nam, sẽ thấy có những lối tu này.

Này A-nan, ta cho phép các thầy Tỳ-kheo ăn ngũ tịnh nhục. Thịt này đều do thần lực của ta biến hóa mà sanh ra, vốn không có mạng căn. Xứ Bà-la-môn các ông đất phần nhiều nóng ướt, lại thêm cát sỏi nên rau cỏ không thể sanh sống. Ta do lòng đại bi, dùng sức thần lực mà gia bị. Nhân lòng đại từ bi giả gọi là thịt, các ông mới được cái vị kia.

Trong giai đoạn ban đầu Phật mới thành đạo, có một số thầy Tỳ-kheo đi khất thực, Phật cho ăn ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh: không thấy giết, không nghe giết, không nghi giết cho mình ăn, con vật tự chết, thịt còn thừa do những con thú khác giết ăn còn dư lại. Do các thầy Tỳ-kheo đi tới xứ của Bà-la-môn, đất đai khô cằn. Những vùng ở gần sa mạc không có rau cải nên không có đồ chay để ăn, Phật mới hóa ra những con cá chết, nai chết, dân lấy đó xẻ thịt cúng dường chư tăng. Chư tăng tuy ăn thịt cá, nhưng đó là do oai thần của Phật hóa hiện chứ không phải thật.

Tại sao, sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Thích tử! Các ông phải biết, người ăn thịt ấy dù tâm được khai mở, giống như được chánh định, đều là đại la-sát. Khi báo thân mạng chung, ắt chìm trong biển khổ sanh tử, không phải là đệ tử của Phật. Người như thế giết nhau, ăn nuốt lẫn nhau chưa thôi dứt, làm sao người ấy được ra khỏi tam giới?

Phật quở nặng quá! Người ăn thịt chúng sanh sẽ chìm trong biển sanh tử. Vì còn giết nhau, ăn nuốt nhau chưa thôi thì làm sao ra khỏi tam giới. Do vì nợ trả không xong, làm sao ra khỏi ba cõi.

Kinh này nặng về Đại thừa, lấy đại bi làm trên. Do lòng đại bi, đối với tất cả chúng sanh đều thương, muốn cho chúng sanh thảy được giải thoát an lạc. Vì vậy không vì sự sống của mình mà dùng tới sinh mạng hay dùng thịt của chúng sanh. Đức Phật đại bi nên đệ tử Phật cũng học theo tâm đại bi đó.

Ông dạy người đời tu chánh định, kế đó phải dứt trừ sát sanh. Đây gọi là lời dạy rõ ràng, thanh tịnh, quyết định thứ hai của Như Lai, Phật Thế Tôn trước. Thế nên A-nan, nếu người không dứt trừ giết hại mà tu thiền định, cũng giống như có người tự bít kín lỗ tai của mình rồi lớn tiếng kêu to mà mong người khác chẳng nghe. Những người này gọi là muốn ẩn mà càng lộ ra.

Lấy tay bít hai tai lại rồi la lớn, mình không nghe lại tưởng mọi người không nghe, đây gọi là muốn ẩn lại càng lộ, muốn kín mà lại bày.

Những Tỳ-kheo thanh tịnh và các vị Bồ-tát đi trên con đường nhỏ còn không đạp cỏ tươi, huống là lấy tay nhổ. Tại sao người có lòng đại bi lại lấy máu thịt của chúng sanh mà ăn cho no?

Nếu các vị Tỳ-kheo không mặc tơ lụa phương đông và dùng những giày dép, áo lông cừu, sữa, tô lạc, đề-hồ v.v... cõi này, những Tỳ-kheo như thế ở trong đời này thật là giải thoát, trả xong nợ đời trước rồi thì không còn đi trong tam giới nữa.

Ở Ấn Độ, nói phương đông tức chỉ Trung Hoa. Ngày xưa tơ lụa làm bằng tơ tằm, là sanh mạng của chúng sanh. Giày dép làm bằng da súc vật, cho tới sữa, tô lạc... cũng là những phần trong thân chúng sanh.

Vì sao? Dùng những phần của thân chúng sanh đều chịu duyên nợ với chúng. Như những người ăn trăm thứ cốc gạo ở trong đất thì chân họ cũng không rời đất. Quyết khiến thân tâm đối với các chúng sanh, hoặc toàn thân hoặc bộ phận của thân, hai đường thân tâm đều không mặc không ăn, ta nói người ấy thật là giải thoát.

Như lời ta nói đây gọi là Phật nói, không như lời nói này tức là ma Ba-tuần nói.

Khi tu phải lấy lời Phật dạy làm kỷ cương. Nếu người nào làm trái lời Phật, dù họ cho là hay mình cũng đừng vội theo. Vì tin theo thì một ngày nào đó sẽ bị dẫn vào đường tà. Muốn giải thoát khỏi trần lao, ra khỏi ba cõi thì đừng có nợ gì trong cõi này, cũng như muốn dứt sanh tử thì đừng gieo mầm sanh tử. Ăn thịt chúng sanh tức là vay nợ chúng sanh, đền trả mãi không thôi, làm sao thoát ly được!

Tuy nhiên, bên Phật giáo nguyên thủy, các sư ăn mặn cũng có lý do. Trong sử nói, lúc ban đầu Phật không bắt buộc ăn chay, nên ngày nay các ngài tu theo những hạnh ban đầu đó. Hơn nữa  các ngài lấy điều này làm y cứ rất vững chắc: Đề-bà-đạt-đa đưa ra năm điều yêu cầu Phật thực hành, trong đó có điều "không ăn thịt cá", Phật không chấp nhận lời đề nghị đó. Do vậy các ngài cho rằng ăn chay là theo Đề-bà-đạt-đa, chứ không phải theo Phật.

Có nhiều gia đình Phật tử nhà ở thôn quê. Họ cũng tu nhưng lâu lâu có khách tới, nhà không có sẵn thức ăn mà có nuôi gà vịt, nên phải giết gà vịt để làm cơm. Người giữ giới nói: "Tôi không cắt cổ gà vịt, ai cắt thì người đó phạm giới." Tuy nhiên, nấu nướng xong thì cùng ăn. Mình không tự tay cắt cổ chúng nhưng người khác làm rồi mình hưởng. Như vậy người cắt cổ chịu tội hết còn những người cùng ăn không có tội gì, vậy thì có công bình và hợp đạo lý không?

Bởi vậy nếu chúng ta không muốn cho người ta cắt cổ gà vịt, tốt hơn hết là mình đừng ăn. Còn nếu đã đồng ý ăn thì phải chia sớt với người ta một phần tội lỗi. Người ta làm cho mình ăn, để rồi phải chịu tội hết thì lòng từ bi bình đẳng đâu có. Mình muốn thảnh thơi mà để ai khổ mặc họ thì không được. Không thể nói rằng "Ai làm gì không biết, miễn đem lên thì tôi ăn, không có tội", e chưa được hợp lý lắm.


KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM GIẢNG GIẢI

HT THANH TỪ




Trong các kinh, Như-Lai cũng nói nếu có phạm bốn tội trọng ba-la-di cho đến phạm tội nhỏ đột-kiết-la, thời phải theo luật mà trị tội. Nếu chúng sanh chẳng hộ trì cấm giới làm sao thấy được Phật tánh.

 

Dầu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhung phải do nơi trì giới rồi sau mới được thấy. Do thấy Phật tánh mà được thành vô thượng chánh giác.

 

Trong chín bộ kinh, không có kinh đại-thừa phương đẳng, cho nên không nói có Phật tánh. Dầu không nói, nhưng phải biết là thiệt có Phật tánh.

 

Người nào nói những lời như đây, thời thiệt là đệ tử của Như-Lai “.

 

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Bạch Thế Tôn ! Như trên đã nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Trong chín bộ kinh chưa từng nghe thấy điều nầy. Như nói là có thời sao lại không phạm tội ba-la-di ?

 

Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Như lời ông nói đó, thiệt chẳng phạm tội ba-la- di. Như có người nói trong biển cả chỉ có bảy thứ báu, không có tám thứ, Người nầy không có lỗi. Cũng vậy, nếu nói trong chín bộ kinh, không có Phật tánh, vẫn là vô tội vì Như-Lai ở trong biển lớn đại trí, đại thừa nói có Phật tánh. Hàng nhị thừa chẳng thấy biết mà nói là không, nên chẳng mắc tội. Cảnh giới nầy là chổ thấy biết của Phật, chẳng phải hàng Thanh-Văn và Duyên giác biết đến.

 

Nầy Ca-Diếp ! Người không được nghe tạng pháp thậm thâm bí mật của Như- Lai thời làm thế nào biết rằng có Phật tánh . Những gì gọi là tạng pháp thậm thâm bí mật của Như-Lai ? Chính là kinh điển đại-thừa phương đẳng vậy.

 

Nầy Ca-Diếp ! Có các nhà ngoại đạo, hoăïc nói ngã là thường còn, hoặc nói ngã là đoạn diệt.

 

Như-Lai không nói như vậy, mà cũng nói là có ngã và cũng nói là không ngã. Đây gọi là trung đạo.

 

Nếu có người nói : Đức Phật nói trung đạo : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì phiền não che ngăn nên không thấy không biết. Vì thế nên phải siêng năng tu tập để dứt trừ phiền não.

 

Ai nói được những lời trên đây thời chẳng phạm bốn tội trọng. Nếu không nói được như đây thời gọi là phạm tội ba-la-di.

 

Nếu có người nói : “ Tôi đã thành Phật, vì tôi có Phật tánh”. Người nói lời nầy phạm tội ba-la-di. Vì dầu có Phật tánh. Nhưng chưa tu tập các pháp lành nên chưa được thấy, vì chưa thấy Phật tánh nên chẳng được thành Phật.

 

Nầy Ca-Diếp ! Do những nghĩa nầy nên Phật pháp rất sâu chẳng thể nghĩ bàn”.



KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN

Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh



Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Ba

Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ
Khinh tảo số số chúng nan quyên.

Mạ Mạ [34]
Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,
mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
              
UM! GIÀ BÀ HA RA.



13.    The White Whisk Hand and Eye
         
Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
 

Comments

Popular posts from this blog