Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
427. YẾT LA RA ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN
羯邏囉怛唎曳泮
KĀLARĀTRIYE PHAT
Đế
Thích Thiên chủ hiệu Hạt Sơn
Thanh
tịnh pháp trung viễn san tham
Tứ
đại bộ châu giai quy mạng
Lục
đạo luân hồi cộng tương liên.
帝釋天主號喝山
清淨法中遠慳貪
四大部洲皆皈命
六道輪迴共相連
UM! YẾT LA RA ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN.
ĐẾ THÍCH THIÊN CHỦ BẢO HỘ
南無因陀囉耶
NAMO INDRYA
424. MIỆC ĐÁT RỊ DUỆ PHẤN
蔑怛唎曳泮
MĀTRĪYE PHAT
THÍCH ĐỀ HOÀN NHƠN BẢO HỘ
Tâu Đại Vương ! Ngày trước Cù Đàm nói thân người là không thường, lạc, ngã, tịnh chúng tôi còn có thể nhẫn được. Nay Cù Đàm tuyên bố thân nầy là thường, lạc, ngã, tịnh chúng tôi thiệt chẳng chịu được.
Xin Đại Vương cho phép chúng tôi luận nghị với Cù Đàm.
Vua A Xà Thế nói : Hôm nay các ngài do ai bày vẽ mà tâm trí cuồng loạn chẳng định như vậy ? Khác nào nước nổi sóng, vòng lửa xoay, khỉ vượn leo cây , thật đáng hổ thẹn.
Người trí nghe được việc nầy tất sẽ xót thương cho các ngài. Kẻ ngu nghe biết thời tất chê cười các ngài. Lời nói của các ngài chẳng phải là lời của người xuất gia. Các ngài nếu mang phải bịnh tật, ta đều có thuốc trị lành được. Nếu như mắc bịnh ma quỉ, thời anh ta là Kỳ Bà có thể trị được.
Nay các ngài muốn lấy móng tay mà chẻ núi Tu Di, muốn dùng răng để cắn nghiền chất Kim Cang, khác nào người ngu thấy Sư Tử Vương lúc đói nằm ngủ mà muốn chọc cho thức dậy, như người lấy ngón tay muốn để trong miệng rắn độc, như muốn lấy tay đậy ngọn lửa, như con chồn rừng muốn kêu rống như sư tử, như con muỗi muốn bay đua với Kim Súy Điểu, như con thỏ lội qua biển muốn chưn đụng đến đáy. Nay các ngài cũng như vậy. Các ngài như chiêm bao thấy hơn Sa Môn Cù Đàm, đây là mơ mộng điên cuồng, chẳng nên tin tưởng.
Nay các ngài có quan niệm muốn tranh biện với Sa Môn Cù Đàm, khác nào con phi nga tự đáp vào đống lửa lớn. Các ngài phải theo lời của ta chẳng cần nói nữa.
Các ngài dầu tán thán ta là bình đẳng như cán cân, nhưng chớ để cho người ngoài nghe được lời nầy.
Các ngoại đạo lại thưa : Tâu Đại Vương ! Sa Môn Cù Đàm có lẽ dùng chú thuật đến bên nhà vua, nên làm cho lòng vua nghi mà chẳng tin các vị thánh nhơn nầy. Nhà vua chẳng nên khinh miệt chúng tôi.
Tâu Đại Vương ! Mặt trăng tròn khuyết, nước biển mặn v.v…, những việc như thế ai làm ra ? Há chẳng phải hàng Bà La Môn chúng tôi ư !
Nhà vua chẳng nghe nước sông Hằng dừng ở trong lỗ tai của A Kiệt Đa Tiên trọn mười hai năm ư ? Nhà vua chẳng nghe Cù Đàm Tiên nhơn cả hiện thần thông mười hai năm biến làm Đế Thích, rồi biến thân Đế Thích làm thân dê đực, biến ngàn nữ căn ở thân Đế Thích ? Nhà vua chẳng nghe Kỳ Nâu Tiên trong một ngày uống hết nước bốn biển làm cho quả đất khô ?
Nhà vua chẳng nghe bà Tẩu Tiên làm ba con mắt cho Tự Tại Thiên ư ? Nhà vua chẳng nghe La Lã Tiên biến thành Ca La Phú làm nước mọi ư ?
Tâu Đại Vương ! Trong phái Bà La Môn có những Tiên nhơn thần thông như vậy, sao nhà Vua lại khinh miệt ư ?
Vua nói : “ Các ngài nếu chẳng tin theo lời của ta, đức Như Lai chánh giác hiện ở trong rừng Ta La, các ngài có thể qua đó tùy ý vấn nạn, Đức Như Lai cũng sẽ giải thích vừa ý các ngài.”
Liền đó vua A Xà Thế cùng chúng ngoại đạo đến chỗ Phật. Vua đầu mặt làm lễ đi nhiễu ba vòng ngồi qua một bên bạch Phật rằng : “ Thế Tôn ! Các nhà ngoại đạo nầy muốn được tùy ý vấn nạn, xin đức Như Lai tùy ý đáp đó.”
Phật nói : “ Nầy Đại Vương ! Như Lai tự biết phải lúc.”
Trong chúng ngoại đạo có Bà La Môn Xà Đề Thủ Na lên tiếng hỏi :” Nầy Cù Đàm ngài nói Niết Bàn là pháp thường trụ phải chăng ?”
_ Nầy Đại Bà La Môn ! Đúng như vậy.
_ Nếu Cù Đàm nói Niết Bàn là thường trụ thời không đúng nghĩa. Vì như những sự vật trong đời, từ hột sanh ra trái nối luôn chẳng dứt, như từ đất sét làm ra cái bình, từ những sợi chỉ mà có cái áo. Cù Đàm thường nói rằng tu quán tưởng vô thường chứng được Niết Bàn. Nhơn là vô thường sao quả lại thường trụ ?
Cù Đàm lại nói giải thoát dục tham chính là Niết Bàn, giải thoát sắc tham và vô sắc tham chính là Niết Bàn. Dứt vô minh v.v… tất cả phiền não thời là Niết Bàn. Từ dục, sắc, nhẫn đến vô minh phiền não đều là vô thường. Nhơn đã vô thường thời quả Niết Bàn cũng phải vô thường.
Cù Đàm lại nói từ nghiệp nhơn nên sanh cõi Trời, do nghiệp nhơn nên sanh địa ngục, do nghiệp nhơn mà được giải thoát, nên các pháp đều do nơi nhơn mà sanh. Nếu đã từ nơi nhơn sanh mà được giải thoát, sao lại nói Niết Bàn là thường ?
Cù Đàm cũng nói rằng sắc theo duyên mà sanh nên gọi là vô thường, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Giải thoát như vậy, nếu là sắc thời là vô thường, nếu là thọ tưởng hành thức cũng là vô thường. Nếu ngoài năm ấm mà có giải thoát, thời giải thoát nầy chính là hư không. Nếu đã là hư không thời chẳng được nói rằng do nhơn duyên sanh, vì hư không là thường là duy nhứt, là khắp tất cả.
Cù Đàm cũng nói rằng : Phàm do nhơn duyên sanh ra thời là khổ, nếu đã là khổ sao lại nói giải thoát là lạc.
Cù Đàm lại nói : Vô thường là khổ, khổ là vô ngã. Nếu đã là vô thường, là khổ, là vô ngã thời là bất tịnh. Tất cả những pháp do nhơn duyên sanh ra, đều là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, sao lại nói Niết Bàn là thường , lạc, ngã tịnh ?
Nếu Cù Đàm nói rằng cũng là thường cũng vô thườntg, cũng khổ cũng vui, cũng là ngã cũng là vô ngã, cũng tịnh cũng bất tịnh, như thế há chẳng phải là hai lời ư ?
Tôi cũng từng nghe bực tôn túc nói nếu Phật ra đời thời lời nói không hai. Nay Cù Đàm nói hai lời, lại xưng rằng Phật chính là thân ta đây. Xin giải thích những điều tôi đã hỏi .
Phật nói : Nầy bà La Môn ! Cứ theo lời của ông, nay tôi hỏi ông tùy ý ông đáp.
Nầy Bà La Môn ! Tánh của ông là thường hay là vô thường ?
_ Tánh của tôi là thường.
Nầy Bà La Môn ! Tánh ấy có thể làm nhơn cho tất cả pháp trong và ngoài chăng ?
_ Chính thế, thưa Cù Đàm.
_ Nầy Bà La Môn ! Tánh ấy làm nhơn như thế nào ?
_ Thưa Cù Đàm ! Từ tánh sanh ra đại, từ đại sanh mạn, từ mạn sanh mười sáu pháp : Năm đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, năm tri căn là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, năm nghiệp căn là tay , chơn, miệng tiếng, nam căn, nữ căn, cùng tâm bình đẳng căn. Mười sáu pháp nầy do năm pháp : Sắc, thinh, hương, vị, xúc sanh ra. Hai mươi mốt pháp nầy có ba pháp căn bổn : Nhiễm, thô và đen. Nhiễm là ái, thô là sân, đen là vô minh. Hai mươi ba pháp nầy, đều nhơn nơi tánh mà sanh.
_ Nầy Bà La Môn ! Những pháp đại, mạn v.v… là thường hay vô thường ?
_ Thưa Cù Đàm theo giáo pháp của tôi thời tánh là thường, những pháp đại v.v… đều là vô thường.
_ Nầy Bà La Môn ! Như trong pháp của ông nhơn là thường còn quả là vô thường. Trong pháp của ta dầu nhơn là vô thường nhưng quả là thường, thời có lỗi gì ?
Nầy Bà La Môn ! Trong pháp của các ông có hai nhơn chăng ?
_ Thưa Cù Đàm, có.
_ Thế nào là hai ?
_ _ Thưa Cù Đàm ! Một là sanh nhơn, hai là liễu nhơn .
_ Thế nào là sanh nhơn ? Thế nào là liễu nhơn ?
_ Sanh nhơn như đất sét làm ra cái bình. Liễu nhơn như đèn soi đồ vật.
_ Hai nhơn nầy là một tánh. Đã là một tánh có thể khiến sanh nhơn làm liễu nhơn chăng ? Có thể khiến liễu nhơn làm sanh nhơn chăng ?
_ Thưa Cù Đàm ! Không.
_ Nếu như sanh nhơn chẳng làm liễu nhơn, liễu nhơn chẳng làm sanh nhơn, có thể nói là nhơn tướng chăng ?
_ Thưa Cù Đàm ! Dầu hai nhơn chẳng làm thành lẫn nhau, nhưng vẫn có nhơn tướng.
_ Nầy Bà La Môn ! Vật của liễu nhơn chiếu rõ có đồng với liễu nhơn chăng ?
_ Thưa Cù Đàm ! Không .
Phật nói : Trong pháp của ta, dầu do từ vô thường chứng đặng Niết Bàn, nhưng Niết Bàn nầy chẳng phải là vô thường. Do từ liễu nhơn mà được nên là thường, lạc, ngã, tịnh. Do từ sanh nhơn mà được nên là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Do đây nên đức Như Lai nói có hai thuyết thường và vô thường. Hai thuyết nầy không có hai lời, nên Phật gọi là không nói hai lời.
Như lời ông nói từng nghe bực tôn túc bảo rằng Phật ra đời không có hai lời. Lời nói trên đây rất đúng. Tất cả chư Phật mười phương ba đời không bao giờ có lời nói sai, vì có thời đồng nói có, không thời đồng nói không, nên gọi là đồng một nghĩa, do đây nên gọi Phật không nói hai lời.
Nầy Bà La Môn ! Đức Như Lai dầu gọi là hai lời, nhưng vì để hiểu rõ một lời. Thế nào là hai lời để hiểu rõ một lời ? Như nhãn căn cùng sắc trần đây là hai lời, sanh ra thức đây là một lời. Nhẫn đến ý căn cùng pháp trần sanh ra thức cũng như vậy.
_ Cù Đàm khéo phân biệt được ngữ nghĩa như vậy. Nay tôi chưa hiểu dùng hai lời để hiểu rõ một lời.
Đức Thế Tôn liền vì Bà La Môn mà tuyên nói pháp tứ đế : Nầy Bà La Môn ! Khổ Đế cũng hai cũng một, nhẫn đến đạo đế cũng hai cũng một.
Bà La Môn thưa : “ Bạch Thế Tôn ! Tôi đã hiểu biết rồi”.
_ Nầy Thiện Nam Tử ! Ông hiểu biết như thế nào ?
_ Bạch Thế Tôn ! Khổ đế , tất cả phàm phu thời hai, còn thánh nhơn thời một. Nhẫn đến đạo đế cũng như vậy.
_ Lành thay ! Đã hiểu.
_ Bạch Thế Tôn ! Nay tôi nghe pháp đã được chánh kiến, tôi quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Cúi xin Đức Đại Từ cho tôi xuất gia.
Đức Phật bảo Kiều Trần Như : ‘ Ông nên cạo bỏ râu tóc cho Xà Đề Thủ Na, cho ông xuất gia”.
Ngài Kiều Trần Như vâng lời Phật cạo tóc cho Xà Đề Thủ Na. Đương lúc cạo có hai thứ rơi xuống : Một là râu tóc, hai là phiền não. Xà Đề Thủ Na liền ở nơi chỗ ngồi chứng đặng quả A La Hán.
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ HAI MƯƠI LĂM
Việt Dịch HT. Trí Tịnh
Comments
Post a Comment