KINH THỦ LĂNG
NGHIÊM
PHẦN CHÍNH-TÔNG
CHỈ THỂ-TÍNH TRONG-SẠCH SÁNG-SUỐT
CỦA "CHÂN-TÂM THƯỜNG-TRỤ"
RỜI TIỀN-TRẦN CÓ TÍNH PHÂN-BIỆT
Phật bảo ông A-nan : "Tôi với ông đồng phái, tình như anh em ruột; lúc
ông mới phát-tâm thì ở trong Phật-pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được
những ân-ái sâu-nặng thế-gian?"
Ông A-nan bạch Phật: "Tôi thấy 32 tướng của Như-lai tốt-đẹp lạ thường,
hình-thể sáng-suốt như ngọc lưu-ly, thường tự suy-nghĩ: Tướng ấy không thể do
dục-ái sinh ra, vì sao? giống dâm-dục nhơ-nhớp, tanh-hôi kết-cấu, máu mủ
xen-lộn, làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong-sạch sáng-suốt như vậy,
nên tôi ước-mong, cắt tóc theo Phật tu-học".
Phật dạy: "Hay thay, A-nan, các ông nên biết hết thảy chúng-sinh
từ vô-thủy đến nay sống chết nối luôn, đều do không biết thể-tính trong-sạch
sáng-suốt của thường-trụ chân-tâm mà lại chỉ dùng các vọng-tưởng, vì vọng-tưởng
đó không chân-thật nên mới có luân-hồi. Nay ông muốn học đạo vô-thượng
Bồ-đề, phát-minh chân-tính thì nên lấy tâm ngay-thẳng mà đáp lại những câu hỏi
của tôi. Thập phương Như-lai đều do một đường thoát-ly sinh-tử là dùng tâm
ngay-thẳng. Tâm mà nói là ngay-thẳng thì cứ như vậy, từ địa-vị đầu đến địa-vị
cuối cùng, chặng giữa, hẳn không có những tướng quanh-co".
A-nan, nay tôi hỏi ông : "Ðương khi ông do 32 tướng của Như-lai mà
phát-tâm thì ông đem cái gì mà thấy và cái gì ưa-muốn?"
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, ưa-muốn như vậy là dùng cái tâm và
con mắt của tôi. Do mắt thấy tướng tốt Như-lai, tâm sinh ưa-muốn nên tôi
phát-tâm muốn tu-hành thoát khỏi sống chết".
Phật bảo ông A-nan: "Như lời ông nói : Thật do tâm và con mắt mà có ưa
muốn. Nếu không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng-phục được
trần-lao; ví như ông vua một nước bị giặc xâm-lấn, phát-binh đánh-dẹp, thì binh
ấy cần biết giặc ở chỗ nào mới đánh-dẹp được. Hiện ông còn mắc phải luân-hồi là
lỗi tại tâm và con mắt của ông". Nay tôi hỏi ông: "Tâm và con mắt ấy
hiện ở chỗ nào?"
[1]
VỌNG-TƯỞNG
CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN
Ông A-nan bạch Phật : "Thưa Thế-Tôn tất-cả mười loài chúng-sinh trong
thế-gian đều cho cái tâm hay biết là ở trong thân. Dầu tôi xem con mắt như hoa
sen xanh của Như-lai cũng ở trên mặt Phật; tôi thấy con mắt vật-chất của tôi ở
trên mặt tôi. Như vậy thì tâm hay biết thật ở trong thân".
Phật bảo ông A-nan : "Hiện nay ông ngồi trong giảng-đường Như-lai. Ông
hãy xem rừng Kỳ-đà hiện ở chỗ nào?"
- Thưa Thế-tôn, giảng-đường cao lớn thanh-tịnh này ở trong vườn Cấp-cô-độc,
còn rừng Kỳ-đà hiện thật ở ngoài giảng-đường.
- A-nan, nay ông ở trong giảng-đường thì ông thấy cái gì trước?
- Thưa Thế-tôn, tôi ở trong giảng-đường, trước thấy Như-lai, sau xem
đại-chúng, rồi trông ra ngoài thấy vườn rừng.
- A-nan, do đâu ông thấy được vườn rừng?
- Thưa Thế-tôn, do các cửa giảng-đường mở rộng nên tôi ở trong thấy suốt
được đến ra ngoài xa.
Khi ấy đức Thế-tôn, ở trong đại-chúng, đưa cánh tay kim-sắc xoa đầu ông
A-nan, chỉ-bảo ông A-nan và đại-chúng rằng : "Có pháp Tam-ma-đề tên là
Đại-phật-đỉnh-thủ-lăng-nghiêm-vương, gồm đủ muôn hạnh. Thập phương Như-lai đều
do một pháp-môn ấy vượt lên đường diệu-trang-nghiêm. Ông nên chăm-chú lắng
nghe". Ông A-nan đỉnh-lễ, kính vâng lời Phật dạy.
Phật bảo ông A-nan: "Như ông vừa nói: Ở trong giảng-đường, do cửa mở rộng
nên ông trông xa thấy được rừng vườn; phỏng có chúng-sinh nào ở trong
giảng-đường, không thấy Như-lai mà lại thấy được ngoài giảng-đường chăng?"
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, ở trong giảng-đường không thấy
Như-lai mà thấy được rừng suối ở ngoài, thật không có lẽ nào như vậy".
- A-nan, chính ông cũng vậy. Cái tâm của ông rõ-biết hết thảy. Nếu hiện nay
cái tâm rõ-biết ấy thật ở trong thân thì trước hết nó phải rõ-biết trong
thân-thể. Vậy có chúng-sinh nào, trước thấy bên trong thân, rồi sau mới thấy
những vật ở ngoài không? Dầu không thấy được tim gan tì vị, nhưng móng tay mọc,
tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy, lẽ phải rõ-biết, sao lại không biết? Đã
không biết bên trong, sao lại biết được bên ngoài? Vậy nên biết rằng ông nói
cái tâm hay-biết hiện ở trong thân, thật không có lẽ nào như vậy.
[2]
VỌNG-TƯỞNG
CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN
Ông A-nan cúi đầu bạch Phật: "Tôi nghe lời Phật dạy như vậy, mới rõ
tâm tôi thật ở ngoài thân. Vì sao? Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải
chiếu trong phòng, rồi sau mới do nơi cửa chiếu sáng ngoài sân. Hết thảy
chúng-sinh không thấy bên trong thân mà riêng thấy bên ngoài, cũng như ngọn
đèn, để ở ngoài phòng, không thể chiếu sáng trong phòng. Nghĩa ấy rõ-ràng, có
lẽ không lầm, chưa biết có đúng với nghĩa-lý rốt-ráo của Phật hay không?"
Phật bảo ông A-nan: "Vừa rồi, các tỷ-khưu theo tôi khất-thực trong
thành Thất-la-phiệt, nay đã về rừng Kỳ-đà. Tôi đã thụ-trai rồi, ông hãy xem
trong hàng tỷ-khưu, khi một người ăn thì các người khác có no không?"
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, không; vì rằng các tỷ-khưu tuy là
A-la-hán, nhưng thân-thể khác nhau, lẽ nào một người ăn lại làm cho cả chúng
đều no được".
Phật bảo ông A-nan: "Nếu cái tâm hay-biết của ông thật ở ngoài thân
thì thân và tâm riêng-cách, tất-nhiên không dính-líu gì với nhau; vậy cái gì
tâm biết thì thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết. Nay
tôi giơ tay đâu-la-miên cho ông xem, trong khi mắt ông thấy thì tâm ông có biết
là tay của tôi không?"
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, đúng thế".
Phật bảo ông A-nan: "Nếu thân với tâm cùng hay-biết một lúc với nhau
thì làm sao tâm lại ở ngoài thân? Vậy nên biết rằng ông nói tâm hay-biết hiện ở
ngoài thân, thật không có lẽ nào như vậy".
[3]
VỌNG-TƯỞNG
CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, như lời Phật dạy: vì không thấy
bên trong, tâm không ở trong thân, vì thân tâm cùng biết, không thể rời nhau,
tâm không ở ngoài thân, nay tôi suy-nghĩ, biết tâm ở một chổ!"
Phật dạy: "Chỗ ấy ở đâu?"
Ông A-nan bạch Phật: "Cái tâm hay-biết đã không biết bên trong mà lại
thấy bên ngoài, theo ý tôi nghĩ thì nó núp sau con mắt. Ví như có người lấy
chén lưu-ly úp vào hai con mắt, con mắt tuy có vật úp vào nhưng không làm
ngăn-ngại, con mắt kia liền thấy thì liền phân-biệt được ngay. Song tâm hay-biết
của tôi không thấy bên trong là vì tâm ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài
rõ-ràng, không bị ngăn-ngại, là vì tâm núp sau con mắt".
Phật bảo ông A-nan: "Như ông vừa nói: Tâm núp sau con mắt như con mắt
núp sau chén lưu-ly; vậy người kia đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt,
trông-thấy núi sông thì có trông-thấy chén lưu-ly không?"
-Thưa Thế-tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt,
thật có thấy chén lưu-ly.
Phật bảo ông A-nan: "Nếu tâm ông núp sau con mắt như con mắt núp sau
chén lưu-ly thì trong khi trông-thấy núi sông sao không trông-thấy con mắt? Nếu
trông-thấy con mắt thì con mắt hình như ngoại-cảnh, không thể liền thấy mà liền
biết được. Nếu không thấy được con mắt thì sao lại nói rằng tâm hay-biết núp
sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm
hay-biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly, thật không có lẽ nào
như vậy".
[4]
VỌNG-TƯỞNG
CHẤP MỞ
MẮT THẤY SÁNG LÀ THẤY BÊN “NGOÀI” THÂN
NHẮM MẮT
THẤY TỐI LÀ THẤY BÊN “TRONG” THÂN
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy: Trong
thân-thể chúng-sinh này, phủ-tạng ở trong, khiếu-huyệt ở ngoài, có tạng thì
tối, có khiếu thì sáng. Nay tôi trả-lời Phật rằng: Mở mắt thấy sáng gọi là thấy
bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào?"
Phật bảo ông A-nan: "Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy
là đối với mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì cái tối trước mắt,
sao lại ở trong thân? Nếu thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không
có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, cái gì ở trong phòng tối đó đều là
tam-tiêu lục-phủ của ông hay sao? Còn như cái tối không đối với mắt, thì làm
sao thành ra có thấy? Dầu tách-rời lối thấy bên ngoài mà cho rằng con mắt đối
vào trong nên thấy tối, thì nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong thân; vậy
mở mắt thấy sáng sao lại không thấy cái mặt. Nếu không thấy cái mặt thì cái
nghĩa con mắt đối vào trong, không thành-lập được. Còn như thấy được cái mặt
thì cái tâm hay-biết ấy và con mắt đều ở ngoài hư-không, sao lại thành ở trong
thân được? Nếu tâm và con mắt ở ngoài hư-không thì tất-nhiên không phải là
thể-chất của ông, vì không lẽ hiện nay Như-lai thấy mặt ông cũng là thân của
ông hay sao? Và như thế thì con mắt đã biết, thân ông lẽ phải không biết. Nếu
ông chấp rằng thân và con mắt đều có biết thì ông phải có hai tính-biết, rồi
chính một thân ông sẽ thành hai đức Phật hay sao? Vậy nên biết rằng ông nói
thấy tối là thấy bên trong thân, thật không có lẽ nào như vậy".
[5]
VỌNG-TƯỞNG
CHẤP TÂM HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ LIỀN CÓ Ở CHỔ ẤY
Ông A-nan bạch Phật: " Tôi thường nghe Phật chỉ-dạy tứ-chúng : Do tâm
sinh nên các thứ pháp sinh, do pháp sinh nên các thứ tâm sinh. Nay tôi suy-nghĩ
thì tức cái thể suy-nghĩ đó thật là tâm-tính của tôi, hễ hợp với chỗ nào thì
tâm liền có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa".
Phật bảo ông A-nan: "Nay ông nói rằng : Do pháp sinh nên các thứ tâm
sinh, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Cái tâm ấy nếu không có
tự-thể thì không thể hợp được; chứ còn nếu không có tự-thể mà vẩn hợp được thì
giới thứ 19 cùng trần thứ 7 hợp lại được hay sao? Nghĩa ấy quyết không đúng.
Còn nếu có tự-thể thì trong khi ông lấy tay tự gãi thân ông, cái tâm biết gãi
của ông ở trong thân ra hay từ bên ngoài vào? Như ở trong thân ra thì lại phải
thấy bên trong, còn như từ ngoài vào thì trước hết phải thấy cái
mặt".
Ông A-nan bạch Phật: " Thấy là con mắt, còn tâm thì biết chứ không
phải thấy như con mắt; nói tâm thấy là không đúng nghĩa".
Phật dạy: " Nếu con mắt thấy được thì khi ông ở trong phòng, cái cửa có
thấy được không? Lại những người chết rồi, vẫn còn con mắt, lẽ ra phải thấy
được vật; mà nếu thấy được vật thì sao gọi là chết. A-nan, lại nếu cái tâm
hay-biết của ông phải có tự-thể thì có một thể hay có nhiều thể? Nay tâm ở nơi
thân ông, thể ấy cùng khắp cả mình hay không cùng khắp? Nếu tâm có một thể thì
ông lấy tay gãi một chi, lẽ ra cả tứ chi đều biết; mà nếu đều biết thì lại
không biết gãi ở chỗ nào. Nếu biết chỗ gãi thì cái thuyết một thể của ông
tự-nhiên không thể thành-lập được. Nếu như có nhiều thể thì thành ra nhiều
người, còn biết cái thể nào là thể của ông. Nếu cái thể ấy cùng khắp cả mình
thì lại như trước kia, không biết được chỗ gãi. Nếu còn như không cùng khắp thì
khi ông chạm trên đầu, đồng-thời cũng chạm dưới chân, hễ đầu có biết, lẽ ra chân
phải không biết, nhưng hiện nay ông lại không phải như thế. Vậy nên biết rằng
hễ hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó, thật không có lẽ nào như vậy".
[6]
VỌNG-TƯỞNG
CHẤP TÂM Ở CHẶNG GIỮA
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trong khi Phật nói
thật-tướng với các vị pháp-vương-tử như ngài Văn-thù, tôi có nghe đức Thế-tôn
cũng dạy rằng: Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài. Theo ý tôi nghĩ: Tâm ở
trong thân, sao lại không thấy bên trong; tâm ở ngoài thân thì thân và tâm
không cùng biết. Vì tâm không biết bên trong nên không thể nói tâm ở trong
thân, vì thân và tâm cùng biết nên nói tâm ở ngoài cũng không đúng lý.
Nay thân và tâm cùng biết, lại tâm không thấy được bên trong thân thì tâm phải ở
chặng giữa".
Phật bảo ông A-nan: "Ông nói "ở chặng giữa" thì cái giữa ấy
chắc không lẫn-lộn và không phải không có chỗ. Nay ông nhận-định cái giữa ấy ở
chỗ nào, ở nơi cảnh hay ở nơi thân? Nếu ở nơi thân mà ở một bên thì không phải
là giữa; còn nếu ở giữa thân thì cũng như ở trong thân. Nếu cái giữa ở nơi cảnh
thì có thể nêu ra được hay không thể nêu ra được? Không nêu ra được thì cũng
như không có cái giữa, còn nêu ra được thì lại không nhất-định ở giữa. Vì sao?
Ví như có người lấy một cây nêu, nêu một chỗ làm cái giữa, thì phương Đông
trông qua, cái nêu lại ở phương Tây; phương Nam nhìn ra, cái nêu thành ở phương
Bắc. Cái giữa nêu ra đã lẫn-lộn thì tâm phải rối-bời, không rõ ở đâu".
Ông A-nan bạch Phật: "Cái giữa của tôi nói, không phải hai thứ ấy. Như
đức Thế-tôn thường dạy: Nhãn-căn và sắc-trần làm duyên, phát-sinh nhãn-thức.
Nhãn-căn có phân-biệt, sắc-trần không hay-biết, nhãn-thức sinh ra ở giữa thì
tâm ở chỗ đó".
Phật dạy: "Nếu tâm ông ở giữa căn và trần thì cái thể tâm ấy gồm cả
hai bên hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì ngoại-vật và tâm-thể
xen-lộn, còn biết tâm là gì? Ngoại-vật không phải có biết như tâm-thể; bên có
biết, bên không biết, trái hẳn lẫn nhau thì lấy cái gì làm cái ở giữa? Gồm cả
hai bên cũng không được và nếu không phải có biết và cũng không phải không biết
thì tức là không có thể-tính, lấy gì làm cái tướng ở giữa. Vậy nên biết rằng
ông nói cái tâm phải ở chặng giữa, thật không có lẽ nào như vậy".
[7]
VỌNG-TƯỞNG
CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH-DÁNG VÀO ĐÂU TẤT-CẢ
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng
chuyển pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na,
Xá-lỵ-phất, Phật thường dạy : Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong,
cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không
dính-dáng vào đâu tất-cả thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của
tôi mà gọi là tâm, có được chăng?".
Phật bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả.
Vậy các vật-tượng thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi
là tất-cả sự-vật mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì
đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không
dính-dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải
không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được.
Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm
hay-biết, thật không có lẽ nào như vậy".
Khi bấy giờ ông A-nan, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật
vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung-kính mà bạch Phật
rằng: "Tôi là em rất nhỏ của Như-lai, nhờ Phật thương-yêu, nay tuy được
xuất-gia, còn ỷ-lại nơi lòng thương của Phật. Vì vậy nên tôi học rộng nghe
nhiều mà chưa chứng-quả vô-lậu, không uốn-dẹp được chú Sa-tỳ-cà-la, bị nó bắt
phải vào nhà dâm-nữ; nguyên-do là vì không biết đường tu-tập đi đến chỗ
chân-thật. Cầu xin Thế-tôn đại từ thương-xót, chỉ-dạy cho chúng tôi đường tu
Xa-ma-tha, cũng khiến cho những ngưòi không tin trừ-bỏ những tư-tưởng
xấu".
Ông A-nan nói như vậy rồi, năm vóc gieo xuống đất, cùng với đại-chúng, hết
lòng mong được nghe lời Phật dạy.
Khi bấy giờ đức Thế-tôn, từ trước mặt, phóng ra các thứ hào-quang,
hào-quang ấy chói sáng như trăm nghìn mặt trời, khắp các thế-giới chư Phật, sáu
thứ rung-động, như thật các cõi nước mười phương, nhiều như vi-trần, hiện ra
trong một lúc. Oai-thần của Phật khiến các thế-giới hợp lại thành một
thế-giới. Trong thế-giới nầy, tất-cả các vị Bồ-tát hiện có, đều an-trụ nơi nước
mình, chấp tay vâng nghe lời Phật dạy.
Phật bảo ông A-nan: “Tất-cả chúng-sinh từ vô-thủy đến nay điên-đảo nhiều
cách, giống nghiệp tự-nhiên nhóm lại như chum quả ác-xoa. Những người tu-hành
không thành được đạo vô-thượng Bồ-đề, đến nỗi lại thành Thanh-văn, Duyên-giác
hoặc thành ngoại-đạo, chư Thiên, Ma-vương hay bà con Ma, đều do không biết hai
chữ cỗi-gốc, tu-tập sai-lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua
nhiều kiếp như vi-trần, rốt-cuộc vẫn không thể thành được. Thế nào là hai thứ
cỗi-gốc? A-nan, một là cái cỗi-gốc sống chết vô-thủy, tức như ông ngày nay cùng
các chúng-sinh dùng cái tâm phan-duyên mà làm tự-tính. Hai là cái thể bản-lai
thanh-tịnh Bồ-đề Niết-bàn vô-thủy thì như hiện nay cái tính bản-minh thức-tính
của ông, sinh ra các duyên ma lại bị bỏ rơi. Do các chúng-sinh bỏ rơi cái
bản-minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính bản-minh mà không tự-giác, oan-uổng
vào trong lục đạo.
A-nan, nay ông muốn biết đường tu Xa-ma-tha ra khỏi sống chết, tôi lại hỏi
ông :
Liền đó đức Như-lai giơ cánh tay kim-sắc, co năm ngón tay, bảo ông A-nan :
« Ông có thấy không ? »
Ông A-nan bạch Phật : « Thấy».
Phật bảo: “Ông thấy cái gì?”
Ông A-nan bạch: “Tôi thấy Như-lai giơ cánh tay, co ngón tay thành nắm tay
sáng-ngời, chói tâm và con mắt của tôi”.
Phật bảo: “Ông đem cái gì mà thấy?”.
Ông A-nan bạch: “Tôi cùng đại-chúng đều đem con mắt mà thấy”.
Phật bảo ông A-nan: “Ông trả-lời tôi rằng Như-lai co ngón tay làm thành nắm
tay sáng-ngời, chói tâm và con mắt của ông; con mắt ông thì thấy được, còn ông
lấy cái gì làm tâm để đối với cái nắm tay chói-sáng của tôi?”.
Ông A-nan bạch: “Như-lai hiện nay gạn-hỏi tâm ở chỗ nào, tôi thì dùng tâm
suy-nghĩ tìm-xét: Tức cái biết suy-nghĩ ấy, tôi lấy nó làm tâm”.
Phật bảo: “Sai rồi, A-nan, cái ấy không phải là tâm của ông”.
Ông A-nan giựt-mình, rời chỗ ngồi, chấp tay đứng dậy bạch Phật: “Cái ấy
không phải là tâm tôi thì gọi là cái gì?”
Phật bảo ông A-nan: “Cái ấy là cái tưởng-tượng những tướng giả-dối
tiền-trần, nó làm mê-lầm chân-tính của ông. Do từ vô-thủy cho đến đời này, ông
nhận tên giặc ấy làm con, bỏ mất tính bản-lai thường-trụ nên phải chịu
luân-hồi”.
Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, tôi là em yêu của Phật, vì tâm yêu Phật
nên tôi xuất-gia. Tâm tôi chẳng những cúng-dường đức Như-lai, mà còn trải qua
hằng-sa quốc-độ, thừa-sự chư Phật và các vị thiện-tri-thức; phát-lòng
đại-dũng-mãnh, làm tất-cả những pháp-sự khó làm, là đều dùng cái tâm ấy. Dầu
cho hủy-báng Phật-pháp, rời-bỏ hẳn thiện-căn, cũng nhân cái tâm ấy. Nay Phật
phát-minh cái ấy không phải là tâm thì tôi thành không có tâm, như cây như đất,
vì ngoài cái hay-biết ấy ra, tôi lại không còn gì nữa. Sao đức Như-lai lại bảo
cái ấy không phải là tâm? Tôi thật kinh-sợ và cả trong đại-chúng nầy không ai
là không nghi-hoặc, xin Phật rủ lòng từ-bi, chỉ-dạy cho những chỗ chưa
giác-ngộ”.
Khi bấy giờ đức Thế-tôn chỉ-dạy ông A-nan và cả đại-chúng, khiến cho tâm
được vô-sinh-pháp-nhẫn, nơi sư-tử-tọa, xoa đầu ông A-nan và bảo ông rằng:
“Như-lai thường nói: Các pháp phát-sinh là duy-tâm biến-hiện, tất-cả nhân-quả,
thế-giới, vi-trần, đều nhân cái tâm thành có thể-tính. A-nan, như trong các
thế-giới, hết thảy sự-vật hiện có, cả đến ngọn cỏ lá, cây, sợi dây, thắt nút,
gạn-xét cỗi-gốc, đều có thể-tính, dầu cho hư-không cũng có tên, có tướng; huống
chi cái tâm sáng-suốt thanh-tịnh nhiệm-mầu, làm cho hết thảy sự vật có thể-tính
mà tự mình lại không có thể-tính.
Nếu ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm
của ông thì cái tâm ấy phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
riêng có toàn-tính; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân
cái tiếng mà có phân-biệt: dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết,
bên trong nắm-giữ cái u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự
phân-biệt bóng-dáng pháp-trần mà thôi.
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng
ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính
phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự
phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi
diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng
thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng
vô-sinh-pháp-nhẫn”.
CHỈ RÕ TÍNH-THẤY
[1]
CHỈ RÕ TÍNH-THẤY
LÀ TÂM THẤY KHÔNG PHẢI CON MẮT THẤY
Lúc ấy ông A-nan cùng cả đại-chúng lặng-im ngơ-ngác.
Phật bảo ông A-nan: “Trong thế-gian, tất-cả những người tu-học, hiện tuy đã
tu đến chín bậc định, nhưng không diệt hết được mê-lầm, thành A-la-hán, đều do
chấp cái vọng-tưởng sống chết, lầm nó là tính chân-thật, vậy nên nay ông tuy
được học rộng nghe nhiều, không thành chính-quả”.
Ông A-nan nghe rồi, lại đau-xót khóc-lóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ dài
chấp tay mà bạch Phật rằng: “Từ khi tôi theo Phật phát-tâm xuất-gia, ỷ-thị
oai-thần của Phật, thường tự mình suy-nghĩ, không cần phải tu, hầu như cho rằng
đức Như-lai sẽ ban cho phép Tam-muội, không biết thân tâm vốn không thay-thế
nhau được; bỏ mất bản-tâm của tôi; thân tuy xuất-gia nhưng tâm không đi vào
chính-đạo, cũng như người con cùng-khổ, bỏ cha trốn-lánh. Ngày nay mới biết,
tuy được nghe Phật-pháp nhiều, nếu không tu-hành thì chẳng khác gì người không
nghe, cũng như người ta nói ăn mà không ăn, rốt-cuộc không thể no được.
Thưa Thế-tôn, chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng ràng-buộc, do vì không
biết tâm-tính yên-lặng thường-trụ, xin đức Như-lai thương-xót kẻ nghèo-khó
rách-rưới, phát-khởi tâm nhiệm-mầu sáng-suốt, mở đạo-nhãn cho chúng tôi”.
Lúc ấy đức Như-lai từ chữ Vạn trước ngực, phóng ra hào-quang báu, hào-quang
ấy rực-rỡ có trăm nghìn sắc, sáng khắp một lúc tất-cả thế-giới chư Phật mười
phương số như vi-trần. Hào-quang soi khắp trên đỉnh các đức Như-lai Thập phương
bảo-sát, xoay về soi đến ông A-nan và cả đại-chúng”, rồi Phật bảo ông A-nan
rằng: “Nay tôi vì ông dựng pháp-tràng lớn, đồng-thời khiến cho tất-cả thập
phương chúng-sinh được tâm-tính nhiệm-mầu sâu-kín, trong-sạch, sáng-suốt và
đạo-nhãn thanh-tịnh.
A-nan, trước ông trả-lời rằng thấy nắm tay chói-sáng, cái chói-sáng nắm tay
ấy do đâu mà có, làm sao thành ra nắm tay, ông đem cái gì mà thấy?”
Ông A-nan bạch: “Toàn thân Phật như vàng Diêm-phù-đàn, sáng-ngời như núi
báu, do đức-tính thanh-tịnh sinh ra nên có hào-quang chói-sáng. Thật tôi lấy
con mắt mà thấy năm ngón tay Phật co nắm lại, giơ cho người xem, nên có tướng
nắm tay”.
Phật bảo ông A-nan: “Như-lai ngày nay xác-thật bảo ông. Những người có trí
cần do ví-dụ mà được khai-ngộ. A-nan, ví như nắm tay tôi, nếu không có bàn tay
tôi thì không thành nắm tay tôi, lại nếu không có con mắt ông, thì không thành
cái thấy của ông. Lấy cái thấy của ông mà so-sánh với nắm tay của tôi, ý-nghĩa
có cân nhau không?”
Ông A-nan bạch Phật: “Ðúng vậy, thưa Thế-tôn, đã không có con mắt của tôi
thì không thành cái thấy của tôi, đem cái thấy của tôi so với nắm tay Như-lai,
sự nghĩa giống nhau không khác”.
Phật bảo ông A-nan: “Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Như
người không có bàn tay thì tuyệt-nhiên không có nắm tay; chứ người không
có con mắt kia, không phải hoàn-toàn không thấy. Là vì làm sao? Ông thử ra
đường hỏi những người đui: Anh thấy cái gì? Thì những người đui kia chắc sẽ
trả-lời: Hiện nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, không thấy gì khác. Lấy cái
nghĩa ấy mà xét thì tiền-trần tự tối, chứ cái thấy nào có hao-kém gì”.
Ông A-nan bạch Phật: “Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi
là thấy được”.
Phật bảo ông A-nan: “Các người đui không có con mắt chỉ thấy tối đen, so
với người có con mắt ở trong nhà tối thì hai cái tối đen ấy khác nhau hay không
khác nhau?
- Thật vậy, thưa Thế-tôn, người ở trong nhà tối với những người đui kia,
so-sánh hai cái tối đen thật không thể khác nhau.
- A-nan, nếu người không có con mắt, thấy trước hoàn-toàn tối đen,
bỗng-nhiên được con mắt sáng, trở lại thấy các thứ sắc nơi tiền-trần mà gọi là
con mắt thấy; thì người ở trong nhà tối kia, thấy trước hoàn-toàn tối đen,
bỗng-nhiên được cái đèn sáng, cũng thấy các thứ sắc nơi tiền-trần, lẽ ra phải
gọi là cái đèn thấy. Nếu như cái đèn thấy thì đèn đã thấy được, tự-nhiên không
thể gọi là đèn; lại cái đèn nó thấy thì dính-líu gì đến ông. Vậy nên biết rằng
đèn làm tỏ các sắc, nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải đèn; mắt làm tỏ
các sắc, nhưng thấy như vậy là tâm chứ không phải mắt”.
Ông A-nan tuy được lời Phật dạy như vậy, cùng với đại-chúng, miệng tuy
im-lặng, tâm chưa khai-ngộ, còn mong đức Như-lai từ-tâm chỉ-bày, chấp tay sạch
lòng, đợi Phật dạy-bảo.
Khi bấy giờ đức Thế-tôn ruỗi tay Ðâu-la-miên sáng-ngời, mở năm ngón tay,
bảo ông A-nan và đại-chúng rằng: “Lúc tôi mới thành-đạo, ở trong Lộc-viên, có
dạy bọn ông A-nhã-đa, năm vị tỷ-khưu và tứ-chúng rằng” Tất-cả chúng-sinh không
thành đạo Bồ-đề và A-la-hán, là do những phiền-não khách-trần mê-hoặc. Thuở đó,
bọn ông do đâu mà khai-ngộ, hiện nay thành được thánh-quả?”
Khi ấy ông Kiều-trần-na đứng dậy bạch Phật: “Tôi nay già-cả, ở trong
đại-chúng, riêng được cái danh là “Hiểu”, do tôi ngộ được hai chữ khách-trần mà
thành chính-quả. Bạch Thế-tôn, ví-như người khách đi đường, vào trọ quán-xá,
hoặc ngủ hoặc ăn, ăn ngủ xong rồi, xếp đồ lên đường, không ở yên được; nếu thật
là người chủ, tự-nhiên không phải đi đâu. Tôi nghĩ như vầy: Không ở yên thì gọi
là khách, còn ở yên thì gọi là chủ. Tôi lấy cái “không ở yên” làm ý-nghĩa chữ
khách. Lại như mới tạnh, mặt trời chiếu-sáng trên cao, ánh sáng vào trong lỗ
hỡ, bày-tỏ hình-dáng bụi trần giữa hư-không. Trần thì lay-động, hư-không thì
yên-lặng. Tôi nghĩ như vậy: Ðứng-lặng gọi là không, lay-động gọi là trần, tôi
lấy cái “lay-động” làm ý-nghĩa chữ trần”.
Phật dạy: “Ðúng thế”.
Khi bấy giờ đức Như-lai ở trong đại-chúng co năm ngón tay, co rồi lại mở,
mở rồi lại co, bảo ông A-nan rằng: “Nay ông thấy gì?”.
Ông A-nan đáp: “Tôi thấy bàn tay Bách-bảo-luân của Như-lai, ở trong chúng,
lúc mở lúc nắm”.
Phật bảo ông A-nan: “Ông thấy tay tôi ở trong chúng khi mở khi nắm, đó là
tay tôi có mở có nắm hay là cái thấy của ông có mở có nắm?”.
Ông A-nan bạch: “Bàn tay báu của Thế-tôn ở trong chúng khi mở khi nắm; tôi
thấy bàn tay Như-lai tự mở tự nắm, chứ không phải tính-thấy của tôi có mở có
nắm”.
Phật bảo: “Cái gì động, cái gì tĩnh?”.
Ông A-nan bạch: “Bàn tay Phật không ở yên, chứ tính-thấy của tôi còn không
có tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên nữa”.
Phật dạy: “Ðúng thế”,
Lúc ấy đức Như-lai từ trong bàn tay, phát một đạo hào-quang báu qua bên
phải ông A-nan, ông A-nan liền quay đầu trông qua bên phải, Phật lại phát một
đạo hào-quang qua bên trái ông A-nan, ông A-nan lại cũng quay đầu trông qua bên
trái. Phật bảo ông A-nan: “Hôm nay đầu ông vì sao lại lay-động?”
Ông A-nan bạch: “Tôi thấy đức Như-lai phát hào-quang báu qua bên trái và
qua bên phải của tôi nên tôi trông qua bên trái bên phải, đầu tự lay-động.
- A-nan, ông trông hào-quang của Phật mà lay-động cái đầu, quay qua bên
phải bên trái, đó là cái đầu của ông động hay là cái thấy động?
- Thưa Thế-tôn, đầu tôi tự-động chứ tính-thấy của tôi còn không ở đâu, lấy
gì mà lay-động”.
Phật dạy: “Ðúng thế”.
Lúc bấy giờ đức Như-lai bảo với vả đại-chúng rằng: “Như các chúng-sinh lấy
cái lay-động mà gọi là trần, lấy cái không ở yên mà gọi là khách, thì các ông
hãy xem ông A-nan, đầu tự lay-động mà cái thấy không lay-động, lại hãy xem bàn
tay tôi tự mở tự nắm mà cái thấy không ruỗi không co. Làm sao các ông hiện nay
lại lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, tự đầu đến cuối, niệm-niệm
sinh-diệt, bỏ mất chân-tính, làm việc trái-ngược; tâm-tính mất chỗ chân-thật,
nhận vật làm mình, xoay-vần trong ấy, tự-nhận lấy cái trôi-lăn trong lục-đạo”.
[2]
CHỈ TÍNH-THẤY
LÀ TÂM KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT
Khi bấy giờ ông A-nan cùng cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm
thư-thái, nghĩ mình từ vô-thủy đến nay, bỏ mất bản-tâm, lầm-nhận sự phân-biệt
bóng-dáng tiền-trần làm tâm, ngày nay được khai-ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp
mẹ hiền, chấp tay lễ Phật, xin đức Như-lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ
vọng, chỗ hư chỗ thật, ở nơi hiện-tiền phát-minh ra hai tính sinh-diệt, và
không sinh-diệt.
Khi ấy vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật: “Trước tôi chưa được vâng nghe lời
Phật dạy-bảo, tôi thấy bọn Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói thân này chết
rồi là mất hẳn và gọi đó là Niết-bàn; nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẩn còn
hồ-nghi, xin Phật chỉ rõ thế nào chứng-biết tính không sinh-diệt nơi tâm này.
Hiện nay các hàng hữu-lậu trong đại-chúng cũng đều trông mong được nghe điều
ấy.”
Phật bảo: “Ðại-vương, thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục-thân đó
của ông có như kim-cương thường còn, không hư-hỏng hay lại cũng biến-đổi và
tan-rã?
- Bạch Thế-tôn, thân tôi hiện nay rốt-cuộc về sau cũng thay-đổi và
tiêu-diệt”.
Phật bảo: “Ðaị-vương, ông chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải
diệt?
- Bạch Thế-tôn, cái thân vô-thường thay-đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị
diệt; song tôi xét nó hiện nay niệm-niệm dời-đổi, mãi mãi không thôi như lửa
thành tro, lần lần tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc
thân này rồi phải diệt mất”.
Phật dạy: “Ðúng thế, Ðại-vương, tuổi-tác của ông nay đã già-yếu, vậy mặt
mày của ông so với lúc còn bé thì như thế nào?
- Bạch Thế-tôn, lúc tôi bé nhỏ, da thịt mớn-mơ, đến khi trưởng-thành,
huyết-khí sung-túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy-yếu, hình-sắc khô-gầy,
tinh-thần lẫn-lộn, tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so-sánh
sao được với lúc đương còn trẻ-mạnh!”
Phật bảo: “Ðại-vương, hình-dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền
đâu?”
Vua bạch: “Thưa Thế-tôn, sự biến-hóa thầm-thầm dời-đổi, tôi thật không hay;
nắng mưa thấm-thoát, lần đến thế nầy. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ,
nhưng mặt mày của tôi đã già hơn khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20
tuổi và đến nay đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe-mạnh
hơn nhiều. Bạch Thế-tôn, tôi thấy thầm-thầm dời-đổi như thế; thân nầy đến nay
tuy đã suy-yếu, nhưng trong sự thay-đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu tôi suy-xét
chín-chắn hơn nữa thì cái biến-đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi
thay-đổi; lại đâu mỗi năm mỗi thay-đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến-hóa; lại
không những mỗi tháng mỗi biến-hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi-thay; xét cho cùng,
nghĩ cho kỹ, trong mỗi sát-na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên
tôi biết thân tôi rốt-cuộc phải biến-đổi và tiêu-diệt”.
Phật bảo: “Ðại-vương, ông thấy biến-hóa dời-đổi không ngừng, ngộ biết là
phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt
chăng?”
Vua Ba-tư-nặc chấp tay bạch Phật: “Thật tôi không biết”.
Phật bảo: “Nay tôi chỉ cho ông cái tính không sinh-diệt, Ðại-vương, khi ông
mấy tuổi, mới thấy nước sông Hằng”.
Vua bạch: “Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết-lễ thần Kỳ-bà-thiên thì đã đi
qua sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng”.
Phật bảo: “Ðại-vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10,
cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời-đổi mãi
mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế
nào?”
Vua bạch: “Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và
đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác”.
Phật bảo: “Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc
trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy
sông Hằng, có già trẻ gì không?”
Vua bạch: “Thưa Thế-tôn, không”.
Phật bảo: “Ðại-vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn;
cái bị nhăn thì thay-đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay-đổi. Cái thay-đổi
thì phải diệt, còn cái không thay-đổi kia, vốn không sinh-diệt, làm sao trong
ấy, lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn
Mạt-già-lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn”.
Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin-biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác,
cùng với đại-chúng nhẩy-nhót vui-mừng, được cái chưa từng có.
[3]
CHỈ
TÍNH-THẤY KHÔNG BỊ MẤT
Ông A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật:
“Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy nghe đó thật không sinh-diệt thì làm sao đức
Thế-tôn lại gọi bọn chúng tôi bỏ mất chân-tính, làm việc trái-ngược? Xin Phật
mở lòng từ-bi, rửa sạch trần-cấu cho chúng tôi”.
Khi ấy Ðức Như-lai ruỗi cánh tay kim-sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A-nan
rằng: “Ông nay thấy tay Mẫu-đà-la tôi là chính hay là ngược?”
Ông A-nan bạch: “Chúng-sinh thế-gian cho đó là ngược, còn tôi thì không
biết thế nào là chính, thế nào là ngược”.
Phật bảo ông A-nan: “Nếu người thế-gian cho đó là ngược, thì người thế-gian
gọi thế nào là chính?”
Ông A-nan bạch Phật: “Ðức Như-lai đưa cánh tay lên, tay Ðâu-la-miên chỉ lên
trên không thì gọi là chính”.
Phật liền giơ cánh tay lên và bảo ông A-nan rằng: “Cái trái-ngược như thế,
chỉ là đầu đuôi thay-đổi lẫn nhau; các người thế-gian lắp đi lắp lại mà xem
thấy. Nay lấy cái thân ông và pháp-thân thanh-tịnh của chư Như-lai, so theo đó
mà phát-minh, thì thân của Như-lai gọi là chính-biến-tri, thân của các ông gọi
là tính trái-ngược; tùy ông xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là
trái-ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là trái-ngược?”
Khi ấy ông A-Nan cùng cả đại chúng chăm-chăm ngó Phật, tròng con mắt không
lay-động, chẳng biết thân tâm chỗ nào trái-ngược. Phật phát-lòng từ-bi,
thương-xót ông A-nan và đại-chúng, phát tiếng hải-triều, khắp bảo trong Hội:
“Các thiện-nam-tử, tôi thường nói rằng : “Sắc, tâm, các duyên và các tâm-sở,
các pháp sở-duyên, đều duy tâm-tính biến-hiện. Thân ông, tâm ông đều là những
vật hiện ra trong tâm-tính. Làm sao các ông lại bỏ mất tâm-tính quý-báu ấy,
nhận cái mê trong ngộ. Mê-muội thành có hư-không, trong hư-không mê-muội ấy,
kết cái mê-muội thành ra có sắc; sắc xen với vọng-tưởng; tưởng tướng làm thân,
nhóm các duyên lay-động bên trong, giong-ruổi theo cảnh-vật bên ngoài; rồi lấy
cái tướng mờ-mịt lăng-xăng đó làm tâm-tính. Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm
thì quyết-định lầm cho rằng tâm ở trong sắc-thân, mà không biết sắc-thân, cho
đến núi sông, hư-không, đất liền bên ngoài đều là những vật hiện trong
tâm-tính; ví-như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong-lặng, chỉ nhận một cái bọt
nước; rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng-tột các biển lớn. Bọn ông tức là
những người mê-lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rủ xuống, không có sai khác.
Như-lai gọi là đáng thương-xót đó”.
[4]
CHỈ
TÍNH-THẤY KHÔNG CÓ CHỖ TRẢ VỀ
Ông A-nan vâng nghe lời Phật từ-bi cứu-độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà
bạch Phật rằng: "Tuy tôi vâng nghe diệu-âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ
thường-trụ viên-mãn sẵn có của tâm-tính, nhưng tôi ngộ được pháp-âm của Phật
vừa dạy là tôi hiện lấy tâm phan-duyên mà thỏa-mãn chỗ ước-mong. Tôi luống được
tâm ấy, chưa dám nhận là tâm-tính bản-lai; mong Phật thương xót, tuyên lời
viên-âm, nhổ gốc nghi-ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng."
Phật bảo ông A-nan: "Bọn ông còn lấy tâm phan-duyên mà nghe pháp thì
cái pháp nhận được đó cũng chỉ là sở-duyên, chứ không phải nhận được pháp-tính.
Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra
phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó
là mặt trăng thì người ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón
tay chỉ nữa. Vì sao? Vì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất
ngón tay lại cũng không phân biệt được sáng và tối. Vì sao? Vì lấy ngón tay tối
làm mặt trăng sáng thì không rõ biết được hai tính sáng tối. Ông cũng như vậy.
Nếu lấy cái phân-biệt pháp-âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái
phân-biệt tiếng nói, có tính phân-biệt.
Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không
được, còn người giữ trạm thì không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy,
nếu thật tâm ông thì không đi đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tính
phân-biệt? Nói như thế chẳng những đối với tâm phân-biệt các tiếng; cái
phân-biệt hình-dung của tôi, rời các sắc-tướng, cũng không có tính phân-biệt;
như vậy cho đến cái phân-biệt đều không, không phải sắc, không phải không, mà
bọn Câu-xá-ly lầm là minh-đế, thì rời các pháp-trần, cũng không tính phân-biệt.
Như vậy tâm-tính của ông đều có chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?"
Ông A-nan bạch: "Như tâm-tính của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm-tính
của Như-lai dạy, làm sao lại không có chỗ trả về? Xin Phật thương-xót chỉ bảo
cho tôi điều ấy."
Phật bảo ông A-nan: "Hãy lấy cái tính thấy của ông thấy tôi đây. Tính
thấy ấy tuy không phải là tâm-tính như mặt trăng thứ hai không phải thật là mặt
trăng. Ông hãy nghe cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.
A-nan, đại-giảng-đường nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng,
nửa đêm vắng trăng, mây mù mờ-mịt thì lại tối-tăm; chỗ có các cửa thì thấy
thông-suốt; chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bịt; chỗ phân-biệt được, thấy cảnh
sắc-duyên; trong chỗ rỗng trống, toàn là hư-không; cảnh tượng mù-mịt khi bụi
nổi lên; mưa tạnh trời thanh lại thấy trong sạch.
A-nan, ông đều xem rõ các tướng biến-hóa ấy, nay tôi trả các tướng ấy về
chỗ bản-nhân của nó. Thế nào là bản-nhân? A-nan, trong các tướng biến-hóa, cái
sáng trả về cho mặt trời. Vì sao? Vì không mặt trời thì không sáng, nguyên-nhân
cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả cho mặt trời. Cái tối trả về cho trăng
tối, thông-suốt trả về cho các cửa, ngăn-bịt trả về cho tường nhà, sắc-duyên
trả về cho phân-biệt, rỗng trống trả về cho hư-không, mù-mịt trả về cho bụi,
trong sáng trả về cho tạnh, và trong thế-gian có những cái gì, cũng không ra
ngoài mấy loại ấy.
Còn cái tính-thấy của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu. Vì sao?
Nếu trả về cho sáng thì lúc không sáng lại không thấy tối, nay tuy các thứ sáng
tối có sai khác, cái thấy không có sai khác. Các cái thấy có thể trả về tự
nhiên không phải là ông, còn cái không thể trả về được thì không phải là ông mà
là ai nữa? Vậy thì biết tâm ông vốn là nhiệm-mầu trong sạch sáng-suốt, ông tự
mê-lầm, bỏ mất tính bản-nhiên mà chịu luân-hồi, thường bị chìm đắm trong bể
sống chết, nên Như-lai gọi là đáng thương xót".
[5]
CHỈ
TÍNH-THẤY KHÔNG CÓ XEN TẠP
Ông A-nan bạch : "Tuy tôi biết tính-thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng
làm sao biết được đó là chân-tính của tôi".
Phật bảo ông A-nan : "Nay tôi lại hỏi ông : hiện ông chưa được đạo-quả
vô-lậu thanh-tịnh, nhờ thần-lực của Phật, mới thấy được cõi sơ-thiền, không bị
ngăn-ngại. Ông A-na-luật thì thấy cõi Diêm-phù-đề như xem quả am-ma-la trong
bàn tay. Các vị Bồ-tát thấy trăm nghìn cõi thập phương Như-lai, cùng tột các
quốc-độ thanh-tịnh, số như vi-trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng-sinh
thì thấy rõ được không quá gang tấc.
A-nan, nay tôi cùng ông hãy xem cung-điện của Tứ-thiên-vương, chặng giữa
xem khắp các loài thủy, lục, không, hành, tuy có nhiều hình-tượng sáng tối khác
nhau, nhưng không cái gì là không phải tiền-trần chia cắt ngăn ngại. Ông hãy ở
nơi đó phân-biệt cái gì là mình, cái gì là vật khác. Nay tôi hãy đưa ông lựa
trong sự thấy đó, cái gì là tâm-thể của ông, cái gì là cái hình-tượng của vật.
A-nan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chứ không
phải ông; đến Thất-kim sơn, xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào-quang nhưng
cũng là vật chứ không phải là ông; lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động,
bụi nổi, cây cối núi sông, cỏ rác người vật, đều là vật chứ không phải là ông.
A-nan, các vật gần xa đó, tuy sai khác nhau, nhưng đồng do cái thấy của ông
thanh-tịnh trông thấy, thì các thứ vật kia tự có sai khác mà tính-thấy của ông
không có sai khác. Cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt đó thật là tính-thấy của ông.
Nếu cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của tôi. Nếu cho rằng
đồng thấy sự vật là thấy cái thấy của tôi thì khi tôi không thấy, sao lại không
thấy được cái chỗ không thấy của tôi? Nếu nói rằng thấy cái không thấy thì
tự-nhiên cái đó không phải là cái tướng của cái không thấy; còn nếu không thấy
được chỗ không thấy của tôi, thì cái thấy bản-nhiên không phải là vật, làm sao
lại không phải là ông?
Lại như cái thấy là vật thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được
vật, vật cũng thấy được ông, thế thì thể-tính xen lộn và ông cùng tôi với cả
thế-gian không thành-lập được.
A-nan, nếu khi ông thấy là chính ông thấy, chứ không phải tôi, thì cái thấy
cùng khắp đó không phải là ông thì còn là ai nữa.
Làm sao lại tự-nghi cái chân-tính của ông. Chân-tính của ông, ông không
tự-nhận lấy, lại chấp lời nói của tôi, mà cầu chứng thật".
[6]
CHỈ
TÍNH-THẤY KHÔNG LÀM NGĂN NGẠI
Ông A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, nếu cái tính thấy đó chắc là tôi,
chứ không phải ai khác, thì khi tôi cùng Như-lai xem cung-điện quý báo của
Tứ-thiên-vương, xem mặt trời mặt trăng, cái thấy ấy cùng khắp cả cõi Sa-bà, khi
lui về tịnh-xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái
thì lại chỉ thấy một chái nhà. Thưa Thế-tôn, cái thấy như vậy, bản thể của nó
cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng; thế là cái thấy
rút lớn thành nhỏ hay là tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn. Nay tôi không
biết nghĩa đó thế nào, xin Phật vì tôi từ-bi chỉ rõ".
Phật bảo ông A-nan: "Tất-cả các thứ trong, ngoài, lớn nhỏ của thế-gian
đều thuộc về tiền-trần, không nên nói rằng cái thấy có co có ruỗi. Ví như trong
đồ vuông thì thấy hư-không vuông; nay tôi hỏi ông: Cái hư-không vuông thấy được
trong đồ vuông ấy, là nhất-định vuông hay không nhất-định vuông? Nếu nhất-định
vuông thì khi thay đồ tròn vào, lẽ ra hư-không tròn; nếu không nhất định thì
trong đồ vuông, lẽ ra không có hư-không vuông. Ông nói không biết nghĩa đó do
đâu, nghĩa đó như vậy, sao còn do đâu được.
A-nan, nếu muốn nhận được tính không vuông không tròn, chỉ trừ-bỏ cái vuông
của đồ-đạc, chứ bản-thể hư-không vốn không vuông, không nên nói rằng lại phải
trừ cả cái vuông của hư-không nữa.
Lại như lời ông hỏi: Khi vào trong phòng, rút cái thấy làm cho nhỏ lại thì
khi ngửa xem mặt trời, há lại kéo cái thấy ngang với mặt trời? Nếu xây tường
nhà chia-cắt cái thấy làm cho đứt-đoạn, thì đến khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại
không thấy dấu-nối. Nghĩa ấy không đúng.
Tất-cả chúng-sinh từ vô-thủy đến nay, lầm mình là vật, bỏ mất tâm-tính, bị
vật xoay-chuyển, cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu biết chuyển được vật
thì đồng với Như-lai, thân tâm đều viên-mãn sáng-suốt, nơi đạo-trường bất-động
đó, trên đầu một mảy lông cũng có thể trùm-chứa thập phương quốc-độ".
[7]
CHỈ TÍNH-THẤY KHI "THỊ"
VÀ "PHI-THỊ"
KHI "CHÂN VÀ VỌNG" CÓ CÙNG 1 CHÂN TÂM
Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy đó, chắc là
chân-tính của tôi thì cái chân-tính đó, hiện ở trước mắt tôi; cái thấy đó đã là
chân-tính của tôi thì thân tâm tôi, hiện nay, lại là vật gì? Mà nay thân tâm ấy
thật có phân-biệt, còn cái thấy kia thì không phân-biệt riêng gì thân tôi. Nếu
nó thật là tâm tôi, làm cho tôi hiện nay có thấy, vậy tính-thấy ấy đã thật là
tôi, còn thân nầy không phải là tôi thì nào khác gì đức Như-lai trước kia đã
hỏi-vặn rằng: " Vật thấy được tôi". Xin Phật rủ lòng đại-từ, chỉ-bày
cho chỗ chưa ngộ".
Phật bảo ông A-nan : "Nay ông nói rằng: Cái thấy ở trước mắt ông,
nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái
thấy đó đã có chỗ ở, không phải không chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi
trong rừng Kỳ-đà, trông khắp rừng, suối với các điện, đường, trên đến mặt trời,
mặt trăng, trước đối với sông Hằng. Nay ông hãy ở trước sư-tử-tọa của tôi, giơ
tay chỉ-bày trong các tướng kia, chỗ dâm là rừng, cái sáng là mặt trời,
ngăn-ngại là vách, thông-suốt là hư-không, như thế cho đến cỏ cây, mảy-mún, tuy
lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là không chỉ đích ra được.
Vậy nếu cái thấy, hiện ở trước mắt ông thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích-xác cái
gì là cái thấy. A-nan, ông nên biết, nếu hư-không là cái thấy, thì hư-không đã
thành cái thấy, còn cái gì mới là hư-không; nếu vật là cái thấy, thì vật đã là
cái thấy, còn cái gì mới là vật. Ông hãy chín-chắn chia-chẻ trong muôn
hiện-tượng, tách ra cái thấy, chỉ-bày cho tôi như các vật kia, rõ-ràng không
lầm-lẫn".
Ông A-nan bạch: "Nay tôi ở giảng-đường nầy, trông xa đến sông Hằng,
trên đến mặt trời, mặt trăng, giơ tay chỉ ra, đưa mắt trông ra, thì những cái
chỉ được đều là vật, chứ không có cái gì là cái thấy. Bạch Thế-tôn, như lời
Phật vừa dạy, chẳng những hàng hữu-lậu sơ-học Thanh-văn như chúng tôi, mà cho
đến các vị Bồ-tát cũng không thể, ở nơi hiện-tượng muôn vật, chỉ ra cái thấy,
rời tất-cả vật, riêng có tự-tính".
Phật dạy: "Đúng thế, đúng thế".
Phật lại bảo ông A-nan: "Như lời ông nói: Không có cái thấy, rời
tất-cả vật, riêng có tự-tính; thì trong tất-cả các vật đã chỉ được, không có
cái gì là cái thấy cả. Nay tôi lại bảo ông: Ông cùng Như-lai ngồi trong rừng
Kỳ-đà, lại xem rừng vườn cho đến mặt trời mặt trăng, nhiều thứ hình-tượng khác
nhau, trong đó, chắc không có cái thấy mà ông có thể chỉ ra được. Vậy ông hãy
phát-minh trong các vật đó, có cái gì ra ngoài cái thấy?"
Ông A-nan bạch: "Thật tôi thấy khắp rừng Kỳ-đà nầy, không biết trong
đó có cái gì ra ngoài cái thấy. Vì sao? Nếu cái cây ra ngoài cái thấy thì sao
lại thấy cây, còn nếu cái cây tức là cái thấy thì sao lại là cây; như thế cho
đến nếu hư-không ra ngoài cái thấy, thì sao thấy được hư-không, còn nếu
hư-không tức là cái thấy, thì sao lại là hư-không. Tôi lại suy-nghĩ, phát-minh
chín-chắn trong muôn hình-tượng, thật không có cái gì ra ngoài cái thấy
cả".
Phật dạy: "Đúng thế, đúng thế".
Khi ấy trong đại-chúng, những vị chưa chứng-quả vô-học, nghe Phật dạy như
thế, mờ-mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng-thời sợ-hãi, không
giữ được tâm thanh-tịnh.
Đức Như-lai biết đại-chúng tâm-niệm rối-loạn, sinh lòng thương-xót, an-ủi
ông A-nan và cả đại-chúng rằng: "Các thiện-nam-tử, bậc vô-thượng
Pháp-vương, lời nói chân-thật, như tính chân-như mà nói, không lừa không dối,
không phải như bốn thứ luận-nghị càn-giỡ bất-tử của bọn Mạt-già-lê; ông hãy
suy-nghĩ cho chín-chắn, chớ phụ lòng thương-mến của tôi".
Lúc ấy ngài Pháp-vương-tử Văn-thù-sư-lỵ thương xót hàng tứ-chúng, ở trong
đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ chân Phật, chấp tay cung-kính mà
bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, đại-chúng nầy không ngộ được chỗ đức
Như-lai phát-minh ra hai nghĩa "thị" và "phi-thị" nơi hai
thứ "cái thấy" và "sắc không". Bạch Thế-tôn, nếu những hiện
tượng sắc không nơi tiền-cảnh, tức là cái thấy, thì lẽ ra có chỗ chỉ được, còn
nếu ra ngoài cái thấy, thì lẽ ra không thể thấy được; mà nay đại-chúng không rõ
nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh-sợ, chứ không phải vì trước đây thiện-căn ít-ỏi;
kính mong đức Như-lai thương-xót, phát-minh cho rõ các vật-tượng ấy và cái thấy
ấy vốn là vật gì, mà ở trong đó, lại không có các nghĩa "thị" và
"phi-thị".
Phật bảo ngài Văn-thù cùng cả đại-chúng rằng: "Thập phương Như-lai và
các vị đại-Bồ-tát ở trong tự-trụ Tam-ma-điạ, thì cái "thấy", cái
"bị-thấy" và các tương-tướng hoa-đốm hư-không, vốn không có gì. Cái
"thấy" và cái "bị thấy" đó vốn là tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu
trong-sạch sáng-suốt, làm sao trong đó, lại còn có các nghĩa "thị" và
"phi-thị"?
Văn-thù, nay tôi hỏi ông: Như ông đây là Văn-thù, nơi ông lại có cái tức là
Văn-thù hay không có Văn-thù?
- Bạch Thế-tôn, đúng thế. Tôi đây thật là Văn-thù, nơi tôi không có cái gì
tức là Văn-thù, vì sao? Vì nếu có cái ấy, thì thành ra hai Văn-thù, nhưng tôi
hiện nay không phải là không Văn-thù; trong đó thật không có hai tướng
"thị" và "phi-thị".
Phật bảo: "Tính-thấy nhiệm-mầu sáng-suốt với các thứ sắc, không thì
cũng như vậy. Vốn một tâm-tính vô-thượng Bồ-đề, lầm-nhận là sắc, không cùng với
nghe, thấy, như dụi con mắt, thấy có hai mặt trăng, thì mặt trăng nào mới thật
là mặt trăng, còn mặt trăng nào lại không phải là mặt trăng. Văn-thù, chỉ có
một mặt trăng thật, trong ấy tự không có cái gì thật là mặt trăng hay không
phải là mặt trăng. Vậy nên hiện nay, các ông phát-minh ra các thứ xem-thấy và
trần-cảnh, đều gọi là vọng-tưởng, không thể ở trong đó, chỉ ra các nghĩa
"thị" và "phi-thị". Nhưng do tất-cả đều là tâm-tính
nhiệm-mầu sáng-suốt nên có thể làm cho các ông ra ngoài các nghĩa "chỉ
được" và "không chỉ được".
[8]
CHỈ TÍNH-THẤY
KHÔNG PHẢI LÀ TỰ-NHIÊN, NHÂN-DUYÊN,
RỜI CÁC DANH-TƯỚNG
Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, thật như lời Pháp-vương dạy,
tâm-tính cùng khắp thập phương thế-giới, yên-lặng thường-trụ, không có
sinh-diệt; điều ấy so với thuyết ông Phạm-chi Sa-tỳ ca-la ngày xưa nói về
minh-đế, hay các thuyết ngoại-đạo như bọn Đầu-hói nói có chân-ngã cùng khắp
mười phương, khác nhau thế nào? Ở núi Lăng-già, đức Thế-tôn đã từng, vì các ông
Đại-tuệ, chỉ-dạy rằng: Bọn ngoại-đạo kia thường nói tự-nhiên, còn Phật nói
nhân-duyên, không phải cảnh-giới của bọn kia. Nay tôi xét cái tâm-tính đó
tự-nhiên, không phải sinh, không phải diệt, xa-rời tất-cả các điều trái-ngược,
luống-dối, giống như không phải là nhân-duyên, cũng không phải là cái tự-nhiên
của bọn kia. Xin Phật khai-thị thế nào, cho chúng tôi khỏi mắc tà-kiến và được
tâm-tính trong-sạch nhiệm-mầu sáng-suốt".
Phật bảo ông A-nan: "Nay tôi phương-tiện chỉ-bày, chân-thật bảo ông
như vậy, ông còn chưa ngộ, lại lầm là tự-nhiên. A-nan, nếu chắc là tự-nhiên, tự
phải chỉ rõ thể-tính tự-nhiên. Ông hãy xét cái tính-thấy kia lấy cái gì làm
tự-thể. Cái thấy đó lại là lấy cái sáng làm tự-thể, lấy cái tối làm tự-thể, lấy
hư-không làm tự thể hay lấy ngăn-bịt làm tự-thể. A-nan, nếu lấy cái sáng làm
tự-thể thì lẽ ra không thấy được tối, nếu lấy hư-không làm tự-thể thì lẽ ra
không thấy được ngăn-bịt, như vậy cho đến lấy các tướng tối mà làm tự-thể thì
đến khi sáng, tính-thấy đã diệt mất rồi, làm sao còn thấy được sáng ?"
Ông A-nan bạch : "Chắc cái tính-thấy ấy không phải là tự-nhiên, thì
nay tôi phát-minh được, nó do nhân-duyên mà sinh; nhưng tâm còn chưa rõ, xin
hỏi đức Như-lai, nghĩa-lý thế nào cho hợp với tính nhân-duyên".
Phật dạy: "Ông nói nhân-duyên, tôi lại hỏi ông: Nay ông do nhân-duyên
mà có thấy; tính-thấy hiện trước đó, vậy tính-thấy, ấy lại là nhân cái sáng mà
có thấy, nhân cái tối mà có thấy, nhân hư-không mà có thấy hay nhân ngăn-bịt mà
có thấy? A-nan, nếu tính-thấy nhân cái sáng mà có, thì lẽ ra không thấy được
tối, còn như nhân cái tối mà có, thì lẽ ra không được sáng; như vậy cho đến
nhân hư-không, nhân ngăn-bịt, thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối. Lại
nữa, A-nan, cái thấy ấy lại là nương cái sáng mà có thấy, nương cái tối mà có
thấy, nương hư-không mà có thấy hay là nương ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu
nương hư-không mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt; nếu nương
ngăn-bịt mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được hư-không; như vậy cho đến nương
cái sáng, nương cái tối cũng đồng như nương hư-không, nương ngăn-bịt. Nên biết
tính-thấy như vậy, không phải nhân, không phải duyên, không phải tự-nhiên, cũng
không phải không tự-nhiên, không có nghĩa "không phải" hay
"không không phải", không có nghĩa "tức là" hay "không
tức là", rời hết tất-cả các tướng, tức là tất-cả sự vật; làm sao trong ấy,
ông lại định đem các danh-tướng hí-luận thế-gian mà phân biệt cho được. Thế
cũng như lấy bàn tay, nắm-bắt hư-không, chỉ thêm nhọc sức, chứ làm sao hư-không
lại để cho ông nắm-bắt".
Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, chắc cái tâm-tính ấy, không
phải nhân-duyên, thế sao đức Thế-tôn lại thường chỉ-dạy cho các hàng tỷ-khưu
rằng : Tính-thấy có bốn thứ nhân-duyên, nghĩa là nhân hư-không, nhân ánh-sáng,
nhân cái tâm và nhân con mắt. Nghĩa đó thế nào?
Phật bảo : A-nan, tôi nói như thế là nói về các tướng nhân-duyên thế-gian,
đó không phải là đệ-nhất-nghĩa. A-nan, tôi lại hỏi ông : Các người thế-gian nói
: Tôi thấy được, thì thế nào, họ gọi là thấy, còn thế nào, họ gọi là không
thấy?"
Ông A-nan bạch : Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, thấy
các hình-tướng, thì gọi là thấy, còn nếu không có ba thứ ánh sáng đó, thì không
thể thấy được."
- A-nan, nếu khi không sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy được
tối; nếu đã thấy được tối, thì khi đó, chỉ là không sáng, chứ đâu phải là không
thấy. A-nan, nếu trong lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy; vậy
nay, trong lúc sáng, không thấy cái tối, thì lại cũng phải gọi là không thấy;
thế thì cả hai lúc sáng, tối, cũng đều gọi là không thấy cả. Còn nếu như hai
cái sáng và tối tự lấn-át nhau, chứ không phải trong đó, tính-thấy của ông
tạm-thời không có; thế thì biết cả hai lúc đều gọi là thấy, chứ sao lại gọi là
không thấy. A-nan, vì vậy ông nên biết rằng : Trong lúc thấy sáng, cái thấy
không phải là cái sáng, trong lúc thấy tối, cái thấy không phải là cái tối,
trong lúc thấy hư-không, cái thấy không phải là hư-không, trong lúc thấy
ngăn-bịt, cái thấy không phải là ngăn-bịt.
"Bốn nghĩa đó đã thành-lập rồi, ông lại nên biết : Khi nhận-thấy
tính-thấy thì tính-thấy không phải là cái thấy. Tính-thấy còn rời cả cái thấy
và cái thấy không thể đến nơi tính-thấy được; làm sao, ông còn nói đến những
nhân-duyên, tự-nhiên và tướng hòa-hợp? Bọn Thanh-văn ông hẹp-hòi không biết, không
thông-suốt được sự thật thanh-tịnh, nay tôi chỉ-dạy cho ông, ông nên khéo
suy-nghĩ, không được trễ-nãi trên đường Bồ-đề nhiệm-mầu".
[9]
CHỈ KHI VỌNG
LẠI CŨNG ĐỀU VỐN LÀ TÁNH NHƯ LAI TẠNG
Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như đức Thế-tôn, vì bọn
chúng-tôi, chỉ-dạy về nhân-duyên, tự-nhiên các tướng hòa-hợp và không hòa-hợp,
tâm tôi còn chưa khai-ngộ; nay lại nghe Phật dạy "nhận-thấy tính-thấy
không phải là cái thấy" thì càng thêm lúng-túng, cúi xin Phật thương-xót,
bố-thí cho con mắt đại-trí-tuệ, chỉ-bày cho chúng tôi tâm-tính trong-sạch
sáng-suốt". Ông A-nan nói như vậy rồi, khóc lóc đỉnh-lễ, vâng nghe
thánh-chỉ của Phật.
Khi bấy giờ. đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và cả đại-chúng, định sẽ
chỉ-dạy phép đại-tổng-trì là con đường tu-hành nhiệm-mầu các pháp Tam-ma-đề,
bảo ông A-nan rằng : "Ông tuy nhớ lâu, chỉ thêm phần học rộng, nhưng nơi
vi-mật quán chiếu Xa-ma-tha, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe cho chín-chắn,
tôi sẽ vì ông phân-tích chỉ-bày, đồng-thời cũng khiến cho những kẻ hữu-lậu
tương-lai được quả Bồ-đề.
A-nan, tất-cả chúng-sinh luân-hồi trong thế-gian đều do hai nhận-thức
sai-lầm, phân-biệt trái-ngược, chính nơi tâm-tính mà phát-sinh, chính theo
nghiệp-báo mà xoay-vần. Hai nhận-thức ấy là gì? Một là nhận-thức sai-lầm nghiệp
riêng của chúng-sinh, hai là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung của chúng-sinh.
Thế nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng? A-nan, như người
thế-gian, con mắt bị bệnh lòa thì ban đêm trông ngọn đèn, riêng có thấy bóng
tròn ngũ sắc bao-phủ. Ý ông nghĩ thế nào? Cái bóng tròn hiện ra nơi ngọn đèn,
đó, là sắc của ngọn đèn hay là sắc của cái thấy? A-nan, nếu như là cái sắc của
ngọn đèn, thì sao những người không lòa lại không cùng thấy, mà chỉ có người
lòa mới thấy bóng tròn. Nếu như là sắc của cái thấy, thì cái thấy đã thành sắc
rồi, còn cái người lòa kia thấy được bóng tròn thì gọi là cái gì?
Lại nữa, A-nan, nếu cái bóng tròn kia ngoài ngọn đèn, riêng mình tự có, thì
lẽ ra khi trông qua bình-phong, bức màn, bàn trà, ghế ngồi, đều có bóng tròn
hiện ra; còn nếu ngoài cái thấy, bóng tròn, riêng mình tự có, thì lẽ ra không
thể thấy được, làm sao người lòa lại thấy bóng tròn. Vậy nên biết rằng : Sắc
thật ở nơi ngọn đèn, cái thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cả cái bóng tròn và
cái thấy bóng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì cái nhận thấy
đó không phải là bệnh; rốt-cuộc không nên nói rằng bóng tròn là ngọn đèn hay là
cái thấy, trong đó còn có bệnh lòa không phải ngọn đèn, không phải cái thấy. Ví
như mặt trăng thứ hai, không phải thật-thể mặt trăng và cũng không phải là cái
bóng của mặt trăng. Vì sao? Vì thấy có mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà thành
ra vậy. Các người có trí, không nên bảo rằng mặt trăng dụi mắt mà thành ra đó,
là hình-tướng hay không phải là hình-tướng, là ra ngoài cái thấy hay không ra
ngoài cái thấy. Bóng tròn cũng như vậy, nó do bệnh lòa mắt mà thành; nay dầu
muốn gọi cái gì là ngọn đèn hay là cái thấy cũng không được, huống nữa, còn
phân-biệt là không phải nhọn đèn hay không phải là cái thấy!
Thế nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung? A-nan, cõi Diệm-phù-đề
này, trừ nước biển-cả ra, trong đó đất-bằng có 3.000 châu, châu lớn chính giữa,
bao-quát từ Đông sang Tây, có đến 2.300 nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong
các biển, trong đó có châu đến 200, 300 nước hoặc có một chục, hai chục, cho
đến 30, 40, 50, nước. A-nan, nếu ở trong đó có một châu nhỏ, chỉ có hai nước,
mà riêng người trong một nước đồng-cảm ác-duyên, thì chúng-sinh trong nước đó
thấy tất-cả những cảnh-giới không tốt; hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai
mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác-tướng khác, như vựng, thích, bội, quyết, tuệ,
bột, phi, lưu, phụ-nhĩ, hồng-nghê; chỉ nước đó thấy, còn chúng-sinh nước bên
kia, thì vốn không thấy và cũng không nghe.
"A-nan, tôi nay đem hai việc đó, lui tới kết-hợp mà chỉ rõ.
A-nan, như cái nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng của chúng-sinh kia, thấy nơi
ngọn đèn hiện ra bóng tròn, tuy giống như tiền-cảnh, nhưng rốt-cuộc là do bệnh
lòa của người ấy tạo-thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải do sắc-tướng
tạo ra; song người nhận-thấy được bệnh lòa vẫn không có lỗi-lầm gì về cái thấy
cả.
So-sánh với hiện nay, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các
chúng-sinh, đều là do bệnh thấy vô-thủy tạo-thành. Cái thấy và cái bị thấy
duyên nhau, hình-như hiện ra tiền-cảnh, thật-chất vốn là bệnh lòa, năng-kiến
sở-kiến của tâm-tính mà thôi.
Giác-ngộ rằng thấy như thế tức là bệnh lòa, thì cái tâm giác-ngộ đó
nhận-thức không lòa. Giác-ngộ thấy như thế là bệnh lòa, thì cái giác-ngộ đó
không phải trong phạm-vi bệnh lòa; đó thật là nhận-thấy tính-thấy, sao còn gọi
là thấy, nghe, hay, biết.
Vậy nên nay ông thấy tôi cùng ông và thập loại chúng-sinh trong thế-gian
đều là thấy lòa, chứ không phải là thấy được cái bị bệnh lòa. Cái tính-thấy
chân-thật kia, vốn ra ngoài bệnh lòa, cho nên không gọi là cái thấy.
A-nan, như lấy nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung kia của chúng-sinh, so với
nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng của một người, thì một người đau mắt cũng đồng
như cả một nước kia; người đau mắt thấy bóng tròn là do bệnh lòa giả-dối sinh
ra; còn trong một nước kia, hiện ra các thứ không tốt là do ác-duyên
nghiệp-chung của chúng-sinh tạo nên; cả hai đều do nhận-thức sai-lầm vô-thủy
giả-dối sinh ra. Tỷ-lệ với 3000 châu, với bốn biển lớn trong cõi Diêm-phù-đề,
với thế-giới Sa-bà cho đến nước hữu-lậu và các chúng-sinh trong mười phương,
đồng là nơi tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt, các bệnh duyên thấy, nghe, hay, biết,
sai-lầm, hòa-hợp giả-dối sinh ra, hòa-hợp giả-dối diệt mất. Nếu xa-rời được các
bệnh duyên hòa-hợp và không hòa-hợp thì cũng diệt-trừ được các nguyên-nhân chết
sống, đầu-đủ tính Bồ-đề không sinh-diệt, bản-tâm thanh-tịnh, bản-giác thường
an-trụ.
A-nan, ông tuy đã ngộ tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt, vốn không phải
nhân-duyên, không phải tự-nhiên, nhưng còn chưa rõ tâm-tính như vậy không phải
hòa-hợp mà sinh, cũng không phải không hòa-hợp.
A-nan, nay tôi lại lấy nơi tiền-trần hỏi ông, ông còn đem tất-cả những tính
nhân-duyên hòa-hợp của tư-tưởng sai-lầm thế-gian mà tự nghi-ngờ rằng chứng tâm
Bồ-đề cũng do hòa-hợp mà phát-khởi. Thì hiện nay, cái thấy của ông lại là hòa
với cái sáng, hòa với cái tối, hòa với cái thông-suốt hay hòa với cái ngăn-bịt?
Nếu hòa với cái sáng thì ông đang thấy sáng, cái sáng hiện đó, vậy chỗ nào
xen-lộn với cái thấy? Cái thấy cái sáng có thể nhận-rõ, còn hình-trạng xen-lộn,
thì như thế nào? Nếu cái sáng ra ngoài cái thấy, thì làm sao thấy được sáng?
Còn nếu cái sáng tức là cái thấy, thì làm sao lại thấy được cái thấy? Như cái
thấy cùng khắp, thì còn chỗ nào hòa được với cái sáng, còn như cái sáng cùng
khắp, thì lẽ ra không hòa được với cái thấy. Cái thấy đã khác với cái sáng thì
khi xen-lộn vào, tất phải làm mất tính-cách của cái sáng. Cái thấy xen vào, làm
mất tính-cách của cái sáng mà nói hòa với cái sáng là không đúng nghĩa. Đối với
cái tối, cái thông-suốt và cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.
Lại nữa, A-nan, hiện nay cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt của ông lại là hợp
với cái sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông-suốt hay hợp với cái ngăn-bịt?
Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái thấy đó đã không
hợp với cái tối, làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tôi mà không hợp với
cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng; mà đã không
thấy được sáng thì làm sao họp với cái sáng và rõ-biết cái sáng không phải là
tối. Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy".
Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như chỗ tôi suy-nghĩ, cái
tâm-tính ấy đối với các trần-cảnh và các tâm-niệm nhớ-nghĩ, không hòa-hợp
chăng?"
Phật dạy: "Nay ông lại nói tâm-tính không hòa-hợp thì tôi lại hỏi ông
: Cái tính-thấy gọi là không hòa-hợp đó, lại là không hòa với cái sáng, không
hòa với cái tối, không hòa với cái thông-suốt, hay không hòa với cái ngăn-bịt?
Nếu không hòa với cái sáng, thì giữa cái thấy và cái sáng phải có ranh-giới.
Ông nay hãy xét cho kỹ : Chỗ nào là cái sáng, chỗ nào là cái thấy. Nơi cái thấy
và nơi cái sáng, thì lấy từ đâu làm ranh-giới. A-nan, nếu bên cái sáng, chắc
không có cái thấy, thì hai cái không đến với nhau, cái thấy tự-nhiên không biết
được cái sáng ở đâu, làm sao mà thành-lập được ranh-giới. Đối với cái tối, cái
thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.
Lại cái thấy, gọi là không hòa-hợp đó, là không hợp với cái sáng, không hợp
với cái tối, không hợp với cái thông-suốt hay không hợp với cái ngăn-bịt? Nếu
không hợp với cái sáng, thì cái thấy với cái sáng, tính trái-ngược nhau, như
cái nghe với cái sáng, không đụng chạm gì với nhau cả; thế thì, cái thấy còn
không biết cái sáng ở đâu, làm sao phát-minh được những lẽ hợp hay không hợp?
Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.
"A-nan, ông còn chưa rõ tất-cả các tướng huyễn-hóa nơi tiền-trần,
chính nơi tâm mà sinh ra, rồi theo nơi tâm mà diệt mất. Cái huyễn-hóa giả-dối
gọi là tướng, mà cái tính chính là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt; như vậy, cho
đến 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ và 18 giới, nhân-duyên hòa-hợp giả-dối có sinh ra,
nhân-duyên chia-lìa giả-dối gọi rằng diệt; mà không biết rằng sinh,
diệt, đi, lại đều vốn là tính chân-như cùng khắp, không lay-động, nhiệm-mầu,
sáng-suốt, thường-trụ của Như-lai-tạng. Trong tâm-tính chân-thường đó,
cầu cho ra những cái đi, lại, mê, ngộ, sống, chết, hẳn không thể được.
[10]
HIỂN "CHÂN-TÂM THƯỜNG-TRỤ"
THU NĂM ẤM VỀ TÁNH NHƯ-LAI-TẠNG
"A-nan, làm sao 5 ấm vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của
Như-lai-tạng ?
A-nan, ví như có người đem con mắt trong-sạch, xem hư-không trong sáng, chỉ
thấy một hư-không trong-sáng, hẳn không thấy gì. Người kia, không lý do gì, lại
bắt con mắt không lay-động; ngó chăm mãi, phát ra mỏi-mệt thì ở giữa hư-không,
riêng thấy có hoa-đốm lăng-xăng và có tất-cả những tướng giả-dối lộn-xộn; nên
biết sắc-ấm cũng lại như vậy.
A-nan, các hoa-đốm lăng-xăng ấy, không phải từ hư-không mà đến, không phải
từ con mắt mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã từ hư-không
mà đến, rồi phải trở vào hư-không; mà đã có ra có vào, thì không phải là
hư-không nữa. Hư-không, nếu lại không phải là hư-không, thì tự-nhiên không thể
dung-nạp hoa-đóm sinh-diệt trong ấy, như thân-thể ông A-nan, không dung-nạp
được một ông A-nan nữa.
Nếu, hoa-đốm từ con mắt mà ra, thì đã từ con mắt mà ra, rồi phải trở vào
con mắt; lại cái tính hoa-đốm ấy đã từ con mắt mà ra, thì lẽ ra phải có thấy.
Nếu như có thấy thì khi đi ra, đã làm hoa-đốm giữa hư-không, đến khi xoay về,
phải thấy được con mắt. Nếu không có thấy, thì khi đi ra đã làm mờ hư-không,
đến khi trở về phải làm mờ con mắt. Lại như thế, khi thấy hoa-đốm, lẽ ra con
mắt không mờ, làm sao, chỉ khi thấy hư-không trong suốt, thì mới gọi là con mắt
trong-sáng? Vậy nên biết rằng sắc-ấm là giả-dối, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
A-nan, ví như có người tay chân yên-ổn, trăm vóc điều-hòa, bỗng như quên
mình, không có gì là trái là thuận; người ấy không lý do gì, lấy hai bàn tay
xoa nhau giữa hư-không, thì nơi hai bàn tay giả-dối sinh ra những cảm xúc trơn,
rít, lạnh, nóng. Nên biết thụ-ấm cũng lại như vậy.
A-nan, các cảm-xúc giả-dối kia, không phải từ hư-không mà đến, không phải
từ bàn tay mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã sinh cảm-xúc
nơi bàn tay, sao lại không sinh cảm-xúc nơi thân-thể, không lẽ hư-không lại
biết lựa chỗ sinh ra cảm-xúc. Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai
bàn tay phải hợp lại. Lại đã từ bàn tay mà ra, thì khi bàn tay hợp lại, biết có
cảm-xúc, đến khi bàn tay rời ra, thì cảm-xúc phải chạy vào và xương tủy cánh
tay, lẽ ra phải biết đường vào của cảm-xúc; rồi lại phải có tâm hay-biết, biết
ra, biết vào, và phải có một vật đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai
tay hợp lại mới gọi là cảm-xúc.Vậy nên biết rằng thụ-ấm là giả-dối, vốn không
phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
A-nan, ví như có người, khi nghe nói đến quả mơ chua thì trong miệng có
nước bọt chảy ra; khi nghĩ đến đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân ghê-rợn. Nên
biết tưởng-ấm cũng lại như vậy.
A-nan, câu chuyện mơ chua như thế, không phải do quả mơ sinh ra, không phải
do cái miệng mà vào. Thật vậy, A-nan, nếu do quả mơ sinh ra, thì quả mơ tự nói
lấy, sao phải đợi người ta nói; nếu do cái miệng mà vào, thì lẽ ra cái miệng tự
nghe lấy, cần gì đến lỗ tai; nếu riêng mình lỗ tai nghe, thì nước bọt kia, sao
không từ lỗ tai chảy ra. Câu chuyện nghĩ đến đứng trên dốc cao cũng giống như
vậy. Vậy nên biết rằng tưởng-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên,
không phải tính tự-nhiên.
A-nan, ví như dòng nước dốc, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không
vượt khỏi nhau. Nên biết hành-ấm cũng lại như vậy.
A-nan, dòng nước như vậy không nhân hư-không mà sinh, không nhân nước mà
có, không phải tính nước, cũng không ra ngoài hư-không và nước. Thật vậy,
A-nan, nếu nhân hư-không mà sinh, thì cả thập phương hư-không vô cùng tận, phải
thành dòng nước vô cùng tận và tự-nhiên thế-giới đều bị chìm-đắm cả. Nếu nhân
nước mà có, thì dòng nước dốc ấy bản-tính lẽ ra không phải là nước nữa và hiện
nay, đã có thể chỉ ra hai tướng của nước và của dòng nước khác nhau. Nếu dòng
nước dốc tức là tính nước thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa;
nếu ra ngoài hư-không và nước thì không có cái gì ở ngoài hư-không và, ngoài
nước ra, không thể có dòng nước. Vậy nên biết rằng hành-ấm là giả-dối, vốn
không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
A-nan, ví như có người lấy bình tần-già, bịt cả hai lỗ, rồi vác đầy bình
hư-không, đi xa nghìn dặm, đem cho nước khác. Nên biết thức-ấm cũng lại như
vậy.
A-nan, cái hư-không đó, không phải đến từ phương kia, cũng không phải đưa
vào phương nầy. Thật vậy, A-nan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã
đựng hư-không đem đi, ở chỗ cũ cái bình phải thiếu hư-không; nếu đưa vào phương
nầy, thì khi mở miệng bình trút ra, phải thấy hư-không ra. Vậy nên biết rằng
thức-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
THU 6 NHẬP VỀ TÁNH NHƯ-LAI-TẠNG
"Lại nữa, A-nan, vì sao bản-tính của 6 nhập, vốn là tính chân-như
nhiệm-mầu của Như-lai-tạng? A-nan, tức nơi tròng con mắt kia, ngó chăm phát ra
mỏi-mệt, thì cả cái thấy và cái mỏi-mệt đó đều là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát
ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần sáng và tối, phát ra cái thấy bên trong, thu-nạp
các trần-tướng ấy gọi là tính-thấy; cái thấy đó rời hai trần sáng và tối kia,
rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết cái thấy đó không phải
từ nơi sáng, nơi tối mà đến, không phải từ nơi con mắt mà ra, cũng không phải
do cái hư-không mà sinh. Ví cớ sao ? Nếu từ cái sáng mà đến, thì khi tối đã
theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ cái tối mà đến, thì
khi sáng phải theo cái tối mà diệt, lẽ ra không thấy được sáng. Nếu do con mắt
mà sinh, hẳn không có sáng, có tối, thì cái thấy như vậy vốn không tự-tính. Nếu
do hư-không mà ra, thì ngó trước thấy các trần-tượng, xoay về phải thấy con
mắt; lại hư-không tự thấy, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết
rằng nhãn-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính
tự-nhiên.
"A-nan, ví như người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai
mỏi-mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả cái nghe cùng cái mỏi-mệt đồng là
thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần động và tĩnh, phát ra cái nghe ở trong, thu-nạp
cái trần-tượng đó, gọi là tính-nghe. Tính-nghe ấy rời hai trần động, tĩnh kia,
rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết, cái nghe đó không phải
từ nơi động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ nơi lỗ tai mà ra, không phải do
hư-không mà sinh. VÌ cớ sao? Nếu cái nghe kia từ nơi tĩnh mà đến, thì khi động
phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được động. Nếu từ nơi động mà đến,
thì khi tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không biết được tĩnh. Nếu do lỗ
tai mà sinh, hẳn không có động, có tĩnh, thì cái nghe như vậy vốn không
tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì đã có tính nghe, chắc không phải là
hư-không nữa; lại hư-không tự nghe, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên
biết rằng nhĩ-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải
tính tự-nhiên.
"A-nan, ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi, bịt lâu thành ra mỏi-mệt
thì ở, trong lỗ mũi, nghe có cảm-xúc lạnh; nhân những cảm-xúc như thế, mà
phân-biệt được là thông, là ngăn-bịt, là rỗng, là đặc, cho đến các mùi thơm,
thối; cả cái ngửi cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra
tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần thông và bịt, phát ra cái ngửi ở trong, thu-nạp
các trần-tượng đó gọi là tính-biết-ngửi. Cái ngửi đó rời hai trần thông và bịt
kia, rốt-ráo không có tự-thể. Nên biết cái ngửi đó, không phải từ cái thông,
cái bịt mà đến, không phải từ nơi lỗ mũi mà ra, cũng không phải do hư-không mà
sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái thông mà đến, thì khi bịt, cái ngửi đã mất rồi, làm
sao mà biết được bịt; nếu nhân cái bịt mà có, thì khi thông, không còn cái
ngửi, làm sao biết được các mùi thơm, thối. Nếu từ lổ mũi sinh ra, hẳn không có
cái thông, cái bịt, thì cái ngửi như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà
ra, thì cái ngửi đó, phải xoay lại ngửi lỗ mũi của ông; lại hư-không tự ngửi,
nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng tỷ-nhập là luống-dối, vốn
không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sinh ra mỏi-mệt.
Nếu người đó có bệnh thì có vị đắng. Còn người không có bệnh thì có chút vị
ngọt. Do những cảm-xúc ngọt, đắng, mà bày tỏ cái tính-nếm; còn khi không động
thì thường có tính-nhạt. Cả cái nếm và cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề
chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần nhạt và ngọt, đắng, phát cái nếm ở trong,
thu-nạp các trần-tượng đó, gọi là tính-biết-nếm. Tính-biết-nếm ấy rời hai trần
nhạt và ngọt, đắng kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết
rằng cái biết đắng, biết nhạt như vậy, không phải từ vị ngọt, đắng mà đến,
không phải nhân tính nhạt mà có, không phải từ nơi lưỡi mà ra, cũng không phải
do hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ các vị ngọt đắng mà đến, thì khi nhạt,
cái biết-nếm đã diệt rồi, làm sao biết được nhạt; nếu từ cái nhạt mà ra thì khi
ngọt, cái nếm đã mất rồi, làm sao biết được vị ngọt, đắng. Nếu do cái lưởi sinh
ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và nhạt, thì cái biết-nếm ấy vốn không
tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì hư-không tự nếm, chứ không phải lưỡi ông
nếm; lại hư-không tự biết, nào có dính gì đến chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết
rằng thiệt-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính
tự-nhiên.
"A-nan, ví-dụ như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng, nếu
thế bên lạnh nhiều hơn, thì bên nóng cũng thành lạnh theo, nếu thế bên nóng
nhiều hơn, thì bên lạnh cũng thành ra nóng; rồi như vậy, do cái cảm-xúc
nhận-biết trong lúc hợp lại mà rõ sự nhận-biết lúc rời ra. Nếu cái thế
chênh-lệch hiện-thành giữa nóng và lạnh, thì nhân đó phát ra mỏi-mệt mà có
cảm-xúc. Cả cái biết cảm-xúc cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú
phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai vọng-trần ly và hợp, phát ra cái hay-biết ở trong, thu-nạp các
trần-tượng đó, gọi là cái biết-cảm-xúc. Cái biết như thế, rời hai trần ly và
hợp, trái và thuận kia, rốt-ráo không có tự-thể; thật vậy, A-nan, ông nên biết
cái cảm-xúc đó, không phải từ cái ly, cái hợp mà tới, không phải từ cái trái,
cái thuận mà có, không phải do nơi thân-thể mà ra, cũng không phải do nơi
hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái hợp mà đến thì khi ly, cái biết đã mất
rồi, làm sao biết được cái ly; đối với hai tướng trái và thuận thì cũng như
vậy. Nếu từ thân-thể mà ra, hẳn không có những tướng ly, hợp, trái, thuận, thì
cái biết-cảm-xúc của ông vốn không tự-tính. Nếu từ nơi hư-không mà ra, thì
hư-không tự hay-biết, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng
thân-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính
tự-nhiên.
"A-nan, ví như có người nhọc-mỏi thì ngủ, ngủ chán thì thức dậy,
khi nhận-biết trần-cảnh thì nhớ, khi hết nhớ thì gọi là quên. Các món sinh,
trụ, dị, diệt, trái-ngược đó, thói-quen thu-nạp đưa vào trong, không lẫn-lộn
nhau, gọi là ý-căn. Cả cái ý-căn cùng cái mỏi-mệt, đồng là thể-tính Bồ-đề
chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.
Nhân nơi hai thứ vọng-trần sinh và diệt, nhóm cái biết ở trong, thu-nạp
pháp-trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược lại vào bên trong mà không đến
đâu, gọi là cái ý-hay-biết. Cái ý-hay-biết đó rời hai trần thức và ngủ, sinh và
diệt kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, nên biết cái ý-căn hay-biết
như thế, không phải từ nơi thức, nơi ngủ mà đến, không phải do cái sinh, cái
diệt mà có, không phải từ nơi ý-căn mà phát ra, cũng không phải do nơi hư-không
mà sinh. Ví cớ sao? Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà
diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ; nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt,
đã hóa như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt. Nếu do cái diệt mà có,
thì khi sinh, không có diệt nữa, lấy gì mà biết là sinh. Nếu do ý-căn mà ra,
thì hai tướng thức, ngủ thay-đổi lẫn nhau nơi thân-thể, nếu rời hai tướng ấy
ra, thì cái ý-hay-biết đó, cũng như hoa-đốm hư-không, rốt-ráo không có tự-tính.
Nếu do hư-không mà sinh, thì hư-không tự biết, nào có dính gì chỗ thu-nạp của
ông. Vậy nên biết rằng ý-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên,
không phải tính tự-nhiên.
THU MƯỜI HAI XỨ VỀ TÁNH NHƯ-LAI-TẠNG
"Lại nữa, A-nan, vì sao bản-tính của 12 xứ, vốn là tính chân-như
nhiệm-mầu của Như-lai-tạng?
A-nan, ông hãy xem rừng cây Kỳ-đà và các suối ao đó; ý ông nghĩ thế nào?
Như thế là sắc-trần sinh ra cái thấy, hay cái thấy sinh ra sắc-tướng?
A-nan, nếu cái thấy sinh ra sắc-tướng, thì khi thấy hư-không, không có
sắc-tướng, lẽ ra tính-thấy sinh ra sắc-tướng đã tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất,
thì tỏ ra hết thảy đều không; sắc-tướng đã không, thì lấy gì rõ được tướng
hư-không? Đối với hư-không thì cũng như vậy.
Lại nếu sắc-trần sinh ra cái thấy, thì khi thấy hư-không, không có sắc, cái
thấy liền tiêu mất đi, tiêu mất thì tất-cả đều không, lấy gì rõ được hư-không
và sắc-tướng?
Vậy nên biết rằng cái thấy cùng sắc, không, đều không có xứ-sở; tức
sắc-trần và cái thấy, hai xứ đó đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên,
không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, ông lại nghe trong vườn Kỳ-đà nầy, khi đồ-ăn dọn rồi thì đánh
trống, khi chúng nhóm lại thì đánh chuông, tiếng chuông, tiếng trống trước sau
nối nhau. Ý ông nghĩ thế nào? Như thế là, cái tiếng đến bên cái nghe hay cái
nghe đến chỗ cái tiếng? A-nan, nếu như cái tiếng đó đến bên cái nghe, thì cũng
như tôi khất-thực trong thành Thất-la-phiệt, tại rừng Kỳ-đà không có tôi nữa.
Cái tiếng đó đã đến bên cái nghe của ông A-nan, thì lẽ ra ông Mục-Liên, ông
Ca-Diếp không cùng nghe một lần, huống chi, trong nầy có 1250 vị Sa-môn, một
khi nghe tiếng chuông, đồng đến chỗ ăn cơm cả.
Lại như cái nghe của ông đến bên cái tiếng, thì cũng như tôi đã về rừng
Kỳ-đà rồi, trong thành Thất-la-phiệt, không còn tôi nữa; vậy khi ông nghe tiếng
trống, cái nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cũng
phát ra, lẽ ra ông không thể nghe cả hai bên, huống nữa, ông còn nghe được cả
tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu không đi đến với nhau,
thì lại không nghe.
Vậy nên biết rằng cái nghe và cái tiếng đều không có xứ-sở; tức cái nghe và
thanh-trần, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải
tính tự-nhiên.
"A-nan, ông hãy ngửi hương chiên-đàn trong lư nầy, hương ấy, nếu đốt
đến một thù, thì cả thành Thất-la-phiệt, trong 40 dặm, đồng-thời đều ngửi mùi
thơm. Ý ông nghĩ thế nào? Mùi thơm ấy sinh ra, do cây chiên-đàn, do nơi lỗ mũi
của ông hay do nơi hư-không? Nếu như mùi thơm ấy sinh ra do lỗ mũi của ông, thì
đã gọi là do lỗ mũi sinh ra, tất phải từ lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải
chiên-đàn, làm sao trong lỗ mũi, lại có được mùi thơm chiên-đàn? Lại đã gọi
rằng ông ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi, còn trong lỗ mũi
phát ra mùi thơm, mà nói rằng ngửi được, thì không đúng nghĩa.
Nếu sinh ra do nơi hư-không, thì tính hư-không thường còn, mùi thơm cũng
phải thường có, cần gì phải đốt cây khô chiên-đàn trong lư rồi mới có. Nếu mùi
thơm sinh ra do cây chiên-đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói; nếu
lỗ mũi ngữi được, thì lẽ ra khói phải xông đến lỗ mũi, làm sao, khói đó lên
trên không, chưa được bao xa, mà trong 40 dặm đều ngửi thơm cả.
Vậy, nên biết rằng hương-trần và cái ngửi đều không có xứ-sở, tức cái ngửi
và hương-trần hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải
tính tự-nhiên.
"A-nan, ông thường hai thời, ở trong chúng cầm bình-bát khất-thực.
Trong đó, hoặc gặp những món tô, lạc, đề-hồ, gọi là vị quý.
Ý ông nghĩ thế nào? Vị đó sinh ra, do nơi hư-không, do nơi cái lưỡi hay do
nơi đồ-ăn?
A-nan, nếu vị ấy sinh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ
có một cái lưỡi; cái lưỡi lúc bấy giờ đã thành vị tô rồi, nếu gặp đường phèn,
lẽ ra cái vị không dời-đổi, mà nếu không dời-đổi, thì không gọi được là biết
vị, còn nếu dời-đổi, thì cái lưỡi không phải có nhiều tự-thể, làm sao, một cái
lưỡi lại biết được nhiều vị? Nếu sinh ra do đồ-ăn, thì đồ-ăn không có tri-giác,
làm sao tự biết được vị? Lại đồ-ăn tự biết, thì cũng đồng như người khác ăn,
nào có dính gì đến ông, mà gọi rằng ông biết vị? Nếu sinh ra do hư-không, thì
ông hãy nếm cái hư-không xem là vị gì. Nếu cái hư-không đó vị mặn, thì đã làm
mặn cái lưỡi của ông, cũng phải làm mặn cái mặt của ông và mọi người trong cõi
nầy, cũng giống như cá bể, đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là
nhạt nữa. Nhưng nếu không biết nhạt, thì lại cũng không biết mặn. Mà đã không
biết cái gì, thì làm sao còn gọi là biết vị?
Vậy nên biết rằng các vị và cái lưỡi biết nếm đều không có xứ-sở; tức cái
biết nếm cùng với các vị, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên,
không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, ông thường sớm mai lấy tay xoa đầu, ý ông nghĩ thế nào? Trong
việc biết xoa đó, lấy cái gì làm cái biết cảm-xúc? Cái biết ở nơi tay hay ở nơi
đầu? Nếu nó ở nơi tay, mà cái đầu không biết, thì làm sao thành cái cảm-xúc ấy?
Còn nếu nó ở nơi đầu, mà cái tay vô-dụng, thì làm sao gọi là cảm-xúc được. Nếu
cả cái đầu và cái tay, mỗi cái đều có biết, thì một mình ông A-nan phải có hai
cái biết cảm-xúc.
Nếu cả đầu và tay đều do một cảm-xúc sinh ra, thì tay và đầu lẽ ra chỉ có
một tự-thể; mà nếu chỉ có một tự-thể, thì không năng, không sở, cảm-xúc không
thành-lập được. Còn nếu là hai thể, thì cảm-xúc ở phía nào, ở bên năng, thì
không ở bên sở, ở bên sở, thì không ở bên năng; không lẽ hư-không tạo-thành
cảm-xúc cho ông?
Vậy nên biết rằng cảm-xúc và thân-căn đều không có xứ-sở; tức cái thân biết
cảm-xúc cùng cái cảm-xúc, hai thứ đều luống-dối, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, ông thường trong ý duyên với ba tính: thiện, ác và vô-ký, sinh
ra có các pháp-trần. Những pháp-trần đó tức nơi tâm mà sinh ra hay là rời cái
tâm, riêng có chỗ khác?
A-nan, nếu tức nơi tâm, thì pháp-trần không phải là trần-cảnh nữa, và như
thế, thì nó không phải là cái sở-duyên của tự-tâm, làm sao thành một xứ
được?
Nếu rời cái tâm, riêng có chỗ khác, thì bản-tính của pháp-trần là có biết
hay không có biết?
Nếu có biết, thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải
trần-cảnh, thì cũng như cái tâm của người khác; còn nếu nó tức là ông và cũng
tức là tâm, thì làm sao cái tâm nơi ông lại thành hai được?
Lại nếu như không có biết, cái pháp-trần đó đã không phải sắc, thanh,
hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư-không, thì nó sẽ ở chỗ nào? Hiện nay
nơi sắc, không, không thể chỉ nó ra được; không lẽ trong nhân-gian lại có cái
ngoài hư-không?
Không có cảnh sở-duyên, thì ý-căn do đâu mà lập-thành một xứ được?
Vậy nên biết rằng pháp-trần cùng ý-căn đều không có xứ-sở; tức ý-căn cùng
pháp-trần, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải
tính tự-nhiên.
THU MƯỜI TÁM GIỚI VỀ TÁNH NHƯ-LAI-TẠNG
"Lại nữa A-nan, làm sao 18 giới vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của
Như-lai-tạng?
A-nan, như ông bày-tỏ : Nhãn-căn và sắc-trần làm duyên, sinh ra nhãn-thức.
Thức đó lại là nhân nhãn-căn sinh ra, lấy nhãn-căn làm giới, hay nhân sắc-trần
sinh ra, lấy sắc-trần làm giới?
A-nan, nếu nhân nhãn-căn sinh ra, mà không có sắc có không, thì không thể
phân-biệt, dầu cho có cái thức của ông thì đem ra dùng về việc gì? Cái thấy của
ông, ngoài những sắc xanh, vàng, trắng, đỏ, thì không thể biểu-hiện được; vậy
do đâu mà lập thành ra giới?
Nếu nhân sắc-trần sinh ra, thì khi chỉ có hư-không, không có sắc, lẽ ra cái
thức của ông phải diệt, làm sao còn biết được là hư-không? Nếu khi sắc-tướng
biến-đổi thành hư-không, ông cũng biết rằng sắc-tướng biến-đổi, mà cái thức của
ông thì không biến đổi; thế thì, do đâu mà lập sắc-trần làm giới? Nếu theo
sắc-trần mà biến-đổi, thì tự-nhiên sắc-trần không thành giới được. Nếu không
biến-đổi, thì là thường hằng, cái thức đã do sắc-trần sinh ra, lẽ ra không thể
biết hư-không ở đâu?
Nếu gồm hai thứ nhãn-căn và sắc-trần chung cùng sinh ra ; vậy, như hợp lại,
thì ở giữa phải ly, còn như ly ra, thì hai bên lại hợp, thể-tính xen-lộn, làm
sao thành được giới?
Vậy nên biết rằng nhãn-căn sắc-trần làm duyên, sinh ra giới nhãn-thức, cả
ba chỗ đều không, và ba giới nhãn-căn, sắc-trần và nhãn-thức, vốn không phải
tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, lại như ông bày-tỏ : Nhĩ-căn và thanh-trần làm duyên, sinh ra
nhĩ-thức. Thức đó nhân nhĩ-căn sinh ra, lấy nhĩ-căn làm giới, hay nhân
thanh-trần sinh ra, lấy thanh-trần làm giới?
A-nan, nếu nhân nhĩ-căn sinh ra, mà không có hai tướng động, tĩnh
hiện-tiền, thì cái biết của nhĩ-căn cũng không thành; mà đã không biết gì, thì
cái biết còn không thành, huống nữa cái thức phân-biệt còn có hình-trạng gì.
Nếu nhân lỗ tai nghe thì đã không động, tĩnh, cái nghe cũng không thành ;
làm sao lấy hình-sắc lỗ tai đối với xúc-trần, mà gọi được là giới nhĩ-thức ; và
cái giới nhĩ-thức như thế, do đâu mà lập ra.
Nếu nhân thanh-trần mà sinh, thì cái nhĩ-thức nhân thanh-trần mà có, không
có dính-líu gì đến cái nghe ; mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng
thanh-trần ở đâu. Lại nói nhĩ-thức do thanh-trần sinh ra, dầu cho rằng
thanh-trần, nhân cái nghe mà có tướng, thì cái nghe, lẽ phải nghe được
nhĩ-thức. Nếu không nghe được nhĩ-thức, thì thanh-trần không phải là giới của
nhĩ-thức. Nếu nghe được, thì nhĩ-thức cũng đồng như thanh-trần, và nhĩ-thức đã
bị nghe, thì lấy cái gì biết được rằng đã nghe cái thức? Còn nếu cái thức không
biết, thì cũng như cỏ như cây.
Lại không lẽ thanh-trần và cái nghe xen-lộn, thành ra giới ở giữa? Giới ở
giữa đã không có, thì các tướng nội-căn, ngoại-trần, do đâu mà thành-lập được.
Vậy, nên biết rằng nhĩ-căn, thanh-trần làm duyên, sinh ra giới nhĩ-thức, cả
ba chỗ đều không và ba giới nhĩ-căn, thanh-trần và nhĩ-thức, vốn không phải
tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, lại như ông bày-tỏ: Tỷ-căn và hương-trần làm duyên, sinh ra
tỷ-thức. Thức đó lại nhân tỷ-căn sinh ra, lấy tỷ-căn làm giới, hay nhân
hương-trần sinh ra, lấy hương-trần làm giới?
A-nan, nếu nhân tỷ-căn sinh ra, thì trong tâm ông lấy cái gì làm tỷ-căn?
Ông lấy cái hình-tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy cái tính ngửi-biết
lay-động làm tỷ-căn?
Nếu lấy cái hình-tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân-căn và cái biết của
thân-căn là cái biết cảm-xúc. Đã gọi là thân-căn thì không phải là tỷ-căn, đã
gọi rằng cảm-xúc, thì đó là xúc-trần đối với thân-căn. Vậy, còn không có gì
đáng gọi là tỷ-căn, do đâu mà lập thành giới?
Nếu lấy cái ngửi-biết làm tỷ-căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái có
ngửi-biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc-trần, chứ
không phải như tỷ-căn; nếu lấy cái hư-không làm cái có ngửi-biết, thì hư-không
tự biết, còn xác-thịt lẽ ra không biết, như thế, thì lẽ ra hư-không là ông;
thân của ông mà không có biết, thì ông A-nan hiện nay lẽ cũng không còn đâu
nữa.
Nếu lấy cái hương làm cái có ngửi-biết, thì cái biết thuộc về hướng-trần,
nào dính gì đến ông?
Nếu các mùi thơm, thối sinh ra do tỷ-căn của ông, thì hai mùi thơm,
thối kia không sinh ra do cây y-lan và cây chiên-đàn; hai vật đó không tới, ông
tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối; thối thì không phải thơm, thơm thì không
phải thối; nếu cả hai mùi thơm, thối đều ngửi được cả, thì một người ông phải
có hai tỷ-căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có hai ông A-nan, thì ông nào mới
là tự-thể của ông. Còn nếu tỷ-căn là một, thì thơm, thối không hai, thối đã
thành thơm, thơm đã thành thối, hai tính đó đã không có, thì lấy gì lập được
thành giới?
Lại nếu nhân hương-trần mà có, thì tỷ-thức đã nhân hương-trần mà có, cũng
như nhân con mắt có thấy, không thể thấy được con mắt; tỷ thức nhân hương-trần
mà có, lẽ ra không biết được hương-trần. Nếu biết được hương-trần, thì không
phải do hương-trần sinh ra, nếu không biết được hương-trần, thì không phải là
tỷ-thức.
Hương-trần mà không ngửi biết là có, thì cái giới hương-trần không thành;
tỷ-thức mà không biết hương-trần, thì cái giới của nó, không phải do hương-trần
mà lập. Đã không có cái thức trung-gian, thì nội-căn, ngoại-trần cũng không
thành và tất-cả những điều ngửi-biết kia rốt-ráo đều luống-dối.
Vậy, nên biết rằng tỷ-căn, hương-trần làm duyên, sinh ra tỷ-thức, cả ba chỗ
đều không và ba giới tỷ-căn, hương-trần và tỷ-thức, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, lại như ông bày-tỏ: Thiệt-căn và vị-trần làm duyên, sinh ra
thiệt-thức. Thức đó lại nhân thiệt-căn sinh ra, lấy thiệt-căn làm giới, hay
nhân vị-trần sinh ra, lấy vị-trần làm giới?
A-nan, nếu nhân thiệt-căn sinh ra, thì như trong thế-gian, những loại mía
ngọt, mơ chua, hoàng-liên đắng, muối mặn, tế tân, gừng, quế cay, đều không có
vị, ông tự nếm cái lưỡi là ngọt hay là đắng. Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái
gì mà nếm cái lưỡi; cái lưỡi đã không thể tự nếm được, thì lấy gì mà có
hay-biết; còn nếu cái lưỡi không đắng, thì tự-nhiên vị-trần không sinh ra, làm
sao mà lập được thành giới?
Nếu nhân vị-trần sinh ra ; vậy thiệt-thức đã là vị rồi, thì cũng đồng như
thiệt-căn, không thể tự nếm được, làm sao còn biết được là có vị hay không có
vị? Lại tất-cả các vị không phải do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật
sinh ra, thì cái thiệt-thức do vị-trần sinh ra, cũng phải có nhiều tự-thể. Nếu
tự-thể của thiệt-thức là một và tự-thể đó thật do vị-trần sinh ra, thì các vị
mặn, nhạt, chua, cay và nhiều vị khác nhau, do các thứ đó hòa-hợp cùng sinh ra,
đều chỉ là một vị, lẽ ra không có phân-biệt; mà đã không có phân-biệt, thì
không thể gọi là thức, làm sao còn gọi là giới thiệt-thức? Không lẽ hư-không
lại sinh được cái thức của ông?
Nếu thiệt-căn, vị-trần, hòa-hợp mà sinh ra cái thức ở giữa, vốn không
tự-tính, làm sao mà lập được thành giới?
Vậy, nên biết rằng thiệt-căn, vị-trần làm duyên, sinh ra thiệt-thức, cả ba
chỗ đều không, và ba giới thiệt-căn, vị-trần và thiệt-thức, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, lại như ông bày-tỏ: Thân-căn và xúc-trần làm duyên, sinh ra
thân-thức. Thức đó lại là nhân thân-căn sinh ra, lấy thân-căn làm giới, hay
nhân xúc-trần sinh ra, lấy xúc-trần làm giới?
A-nan, nếu nhân thân-căn sinh ra, không có cái duyên của hai cảm-xúc hợp và
ly, thì thân-căn còn biết gì. Nếu nhân xúc-trần sinh ra mà không có thân-căn
của ông, thì có ai không có thân-căn mà biết hợp, biết ly được.
A-nan, vật thì không biết cảm-xúc, thân-căn có biết, mới có cảm-xúc ; tức
nơi cảm-xúc, mà biết có thân-căn, tức nơi thân-căn mà biết có cảm-xúc; nhưng đã
tức là cảm-xúc, thì không phải thân-căn, mà đã tức là thân-căn, thì không phải
cảm-xúc; cả hai tướng thân-căn và xúc-trần, vốn không có xứ-sở. Nếu xúc-trần
hợp một với thân-căn, thì tức là tự-thể của thân-căn rồi; còn nếu rời hẳn với
thân-căn, thì thành không có gì, như các tướng hư-không.
Nội-căn, ngoại-trần đã không thành, thì làm sao lập được cái thức ở giữa;
cái thức ở giữa đã không lập được, thì nội-căn, ngoại-trần, bản-tính cũng
rỗng-không và cái thức của ông do đâu mà lập được thành giới.
Vậy, nên biết rằng thân-căn, xúc-trần làm duyên, sinh ra thân-thức, cả ba
chỗ đều không, và ba giới thân-căn, xúc-trần và thân-thức, vốn không phải tính
nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.
"A-nan, lại như ông bày-tỏ: Ý-căn và pháp-trần làm duyên, sinh ra
ý-thức. Thức đó lại là nhân ý-căn sinh ra, lấy ý-căn làm giới, hay nhân
pháp-trần sinh ra, lấy pháp-trần làm giới?
A-nan, nếu nhân ý-căn sinh ra, thì trong ý ông, chắc phải có chỗ nghĩ-ngợi
mới phát-minh được cái ý của ông ; nếu không có các pháp-trần, thì ý-căn không
thể sinh ra được. Rời các pháp-trần, ý-căn còn không có hình-tướng, thì đem
ý-thức ra mà dùng vào việc gì?
Lại cái thức-tâm của ông với các thứ nghĩ-ngợi, các sự rõ-biết là đồng nhau
hay khác nhau. Nếu đồng với ý-căn, thì tức là ý-căn rồi, làm sao lại do ý-căn
sinh ra ? Nếu khác, mà không đồng với ý-căn, thì lẽ ra không còn biết gì. Nếu
không biết gì, thì làm sao lại do ý-căn sinh ra; còng nếu có biết, thì làm sao
lại chia ra ý-thứ và ý-căn? Chỉ hai tính đồng nhau, khác nhau còn không thành,
làm sao lập được thành giới?
Nếu nhân pháp-trần sinh ra, thì các pháp trong thế-gian, không ngoài năm
trần. Ông hãy xét các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ-ràng đối với
năm căn, đều không thuộc về phần thu-nạp của ý-căn. Nếu ý-thức của ông quyết-định
nương nơi pháp-trần mà sinh ra, thì ông hãy xét từng pháp, từng pháp,
hình-trạng thế nào. Nếu rời hẳn các tướng sắc, không, động, tĩnh, thông, bịt,
hợp, ly, sinh, diệt, thì rốt-ráo không thành một pháp nào cả. Lại, sinh cũng là
các pháp như sắc, như không sinh ra, diệt cũng như các pháp như sắc, như không
diệt mất. Các nguyên-nhân đã không thành, thì cái thức do nó sinh ra, còn có
hình-tướng gì; hình-tướng còn không có, làm sao mà lập được thành giới. Vậy,
nên biết rằng ý-căn, pháp-trần làm duyên, sinh ra ý-thức, cả ba chỗ đều không,
và ba giới ý-căn, pháp-trần và ý-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không
phải tính tự-nhiên".
THU BẢY ĐẠI VỀ TÁNH NHƯ-LAI-TẠNG
Ông A-nan bạch Phật : "Thưa Thế-tôn, đức Như-lai thường nói về nhân
duyên hòa-hợp rằng: Tất-cả các thứ biến-hóa trong thế-gian đều nhân bốn món
"Đại" hòa-hợp mà phát ra. Làm sao đức Như-lai lại bác-bỏ cả hai nghĩa
nhân-duyên và tự-nhiên. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng
thương-xót chỉ-bày cho chúng-sinh nghĩa rốt-ráo của trung-đạo, không còn các
đều hý-luận."
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông A-nan rằng : "Trước đây ông nhàm-chán
các pháp tiểu-thừa Thanh-Văn, Duyên-giác, phát tâm tha-thiết cầu đạo vô-thượng
Bồ-đề, nên tôi lúc nầy chỉ-bày cho ông đệ-nhất-nghĩa-đế, làm sao ông lại còn
đem những nhân-duyên vọng-tưởng hý-luận thế-gian mà tự ràng-buộc mình? Ông tuy
nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc
thật ở trước mắt, thì lại không phân-biệt được. Như-lai gọi là rất đáng
thương-xót. Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân-tách chỉ-bày và cũng để
cho những người tu đại-thừa sau nầy thông-suốt được thật-tướng."
Ông A-nan yên-lặng kính vâng thánh-chỉ của Phật.
Phật dạy : "A-nan, như ông đã nói: Bốn món "Đại" hòa-hợp
phát ra các thứ biến-hóa trong thế-gian. A-nan, nếu tính các món đại kia không
phải hòa-hợp, thì không thể lẫn-lộn với các đại khác, cũng như hư-không không
thể hòa-hợp được với các sắc-tướng. Nếu tính của các đại là hòa-hợp, thì cũng
đồng như các thứ biến-hóa, thủy chung thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi
diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng
nghỉ. A-nan, như nước thành giá, giá lại thành nước.
Ông hãy xét cái tính của địa-đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì làm vi-trần,
cho đến lân-hư-trần, do chẻ chất cực-vi, là sắc-tướng nhỏ tột, ra 7 phần mà
thành. Nếu chẻ lân-hư-trần nữa, thì thật là tính hư-không.
A-nan, nếu cái lân-hư-trần đó, chẻ ra thành được hư-không, thì biết
hư-không cũng sinh ra được sắc-tướng. Nay ông hỏi rằng do hòa-hợp mà sinh ra
các tướng biến-hóa trong thế-gian, thì ông hãy xét một cái lân-hư-trần, phải
dùng bao nhiêu hư-không hợp lại mới có, không thể lân-hư-trần hợp lại thành lân-hư-trần.
Lại lân-hư-trần đã chẻ được thành hư-không, thì phải dùng bao nhiêu sắc-tướng
hợp lại, mới thành cả hư-không. Nhưng nếu sắc-tướng hợp lại, thì hợp sắc-tướng
lại, không thể thành được hư-không; còn nếu hư-không hợp lại, thì hợp hư-không
lại, không thể thành được sắc-tướng; sắc-tướng còn có thể chẻ được, chứ
hư-không thì làm sao mà hợp được?
Ông vốn không biết trong Như-lai-tạng, tính sắc là chân-không, tính không
là chân-sắc, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh,
đáp-ứng với lượng hay-biết, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm
là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có
lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.
"A-nan, hỏa-đại không có tự-thể, gửi nơi các duyên mà phát-hiện. Ông
hãy xem các nhà, chưa ăn ở trong thành, khi muốn nhóm bếp, thì tay cầm kính
hiển-vi, đưa trước ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.
A-nan, phàm gọi là hòa-hợp, thì như tôi cùng ông và 1.250 vị tỷ-khưu, hiện
nay, hợp-thành một chúng; tuy chúng chỉ có một, song gạn-xét về căn-bản, thì
mỗi người đều có thân, đều có danh-tự họ-hàng của mình, như ông Xá-lỵ-phất, thì
thuộc dòng Bà-la-môn, ông Ưu-lâu-tần-loa, thì thuộc dòng Ca-diếp-ba, cho đến
ông A-nan, thì thuộc dòng họ Cù-đàm.
A-nan, nếu lửa đó nhân hòa-hợp mà có, thi khi người kia cầm kính lấy lửa
nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do bùi-nhùi mà có hay từ mặt
trời mà đến?
A-nan, nếu từ mặt trời mà đến, thì lửa ấy đã đốt được bùi-nhùi trong tay
của ông, những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi qua, lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu
từ trong kính mà ra, thì lửa ấy đã có thể từ trong kính ra đốt cháy bùi-nhùi,
làm sao cái kính lại không chảy; cho đến cả cái tay ông cầm kính còn không thấy
nóng, thì làm sao kính lại chảy được. Nếu do bùi-nhùi sinh ra, thì cần gì ánh
sáng mặt trời và kính tiếp-đối với nhau, rồi sau lửa mới sinh ra. Ông hãy xét
cho kỹ, kính do tay cầm, mặt trời thì đi trên trời, còn bùi-nhùi thì từ đất
sinh ra, vậy lửa từ phương nào đi đến chỗ đó. Mặt trời và kính xa nhau, không
phải hòa, không phải hợp, không lẽ lửa kia, không do đâu mà tự có.
Ông còn không biết trong Như-lai-tạng, tính hỏa là chân-không, tính không
là chân-hỏa, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh,
đáp-ứng với lượng hay-biết.
A-nan, ông nên biết rằng người đời cầm kính một chỗ, thì một chỗ có lửa
sinh ra, khắp pháp-giới đều cầm kính, thì khắp pháp-giới bốc lửa. Lửa bốc khắp
thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là
nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có
lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.
"A-nan, tính nước không nhất-định, khi chảy, khi đứng không chừng. Như
trong thành Thất-la-phiệt, các ông tiên Ca-tỳ-la, Chước-ca-la và các nhà
đại-huyễn-thuật Bát-đầu-ma, Ha-tát-đa, vân vân... muốn cầu tinh Thái-âm để hòa
với các thuốc huyễn-thuật, thì các ông ấy, trong lúc sáng trăng trong, tay cầm
hạt châu Phương-chư, hứng nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt
châu mà ra, do hư-không mà có hay từ mặt trăng mà đến?
A-nan, nếu từ mặt trăng mà đến, thì ở phương xa còn có thể làm cho hạt châu
chảy ra nước, những rừng cây ánh sáng mặt trăng đi qua, lẽ ra đều phải phun
nước; mà nếu phun nước, thì sao lại phải đợi có hạt châu Phương-như mới chảy
nước được? Còn nếu không phun nước, thì rõ-ràng nước đó, không phải từ mặt
trăng mà xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu ấy, thường phải chảy
nước, sao còn phải đợi ánh sáng mặt trăng trong lúc nửa đêm? Nếu do hư-không mà
sinh, thì hư-không không bờ-bến, nước cũng không giới-hạn; vậy từ cõi người đến
cõi trời, lẽ ra đều phải chìm-ngập cả, làm sao lại còn có thủy, lục, không,
hành? Ông hãy xét cho kỹ, mặt trăng từ trên trời đi qua, hạt châu do tay cầm,
còn cái mâm hứng nước thì do người sắp đặt; vậy nước kia từ phương nào mà chảy
đến đó. Mặt trăng và hạt châu xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ
nưóc kia, không do đâu mà tự có.
Ông còn biết trong Như-lai-tạng, tính thủy là chân-không, tính không là
chân-thủy, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng
với lượng hay-biết. Một chỗ cầm hạt châu, thì một chỗ nước chảy ra, khắp
pháp-giới cầm hạt châu, thì đầy pháp-giới nước sinh ra. Thủy-đại sinh khắp
thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là
nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có
lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.
"A-nan, phong-đại không có tự-thể, khi động, khi tĩnh không chừng. Ông
thường sửa áo, vào trong đại-chúng, gấu áo Tăng-già-lê động đến người bên cạnh,
thì có chút gió phảy qua mặt người kia. Gió đó lại là, do gấu áo ca-sa mà ra,
do hư-không mà phát-khởi hay do mặt người kia mà sinh?
A-nan, nếu gió đó phát ra, do gấu áo ca-sa, thì ông đã mặc cả gió, lẽ ra
cái áo phải bay tung ra, rời khỏi thân-thể của ông. Nay tôi thuyết-pháp, rũ áo
ở trong Hội nầy, ông hãy xem cái áo tôi, gió ở chỗ nào? Không lẽ trong áo lại
có chỗ chứa gió.
Nếu gió đó do hư-không sinh ra, thì khi cái áo ông không động, vì sao lại
không phải gió? Và tính hư-không thường còn, thì gió lại phải thường sinh ra;
khi không có gió, thì hư-không phải diệt mất. Gió diệt, thì có thể thấy được,
còn hư-không diệt, thì hình-trạng thế nào? Lại nếu có sinh diệt, thì không gọi
là hư-không và đã gọi là hư-không, thì làm sao lại phát ra gió được?
Nếu gió đó sinh ra do cái mặt người bị phảy, thì đã do mặt người đó sinh
ra, lẽ ra phải phảy lại ông, sao tự ông sửa áo mà lại phảy ngược lại người kia?
Ông hãy xét cho kỹ: Sửa áo là do nơi ông, cái mặt thì thuộc về người kia,
hư-không thì vắng-lặng, không thể lay-động, vậy gió từ phương nào giong-ruổi
đến đó. Tính gió và tính hư-không cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp,
không lẽ gió kia, không do đâu mà tự có.
Ông thật không biết trong Như-lai-tạng, tính phong là tính chân-không, tính
không là chân-phong, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm
chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết. A-nan, như một mình ông hơi động cái
áo, thì có chút gió phát ra; khắp pháp-giới đều phảy, thì khắp cõi nước sinh ra
phong-đại. Phong-đại đầy-nhẩy thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện.
Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo
phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.
"A-nan, hư-không không có hình, nhân sắc-tướng mà tỏ-bày ra. Như trong
thành Thất-la-phiệt, chỗ cách xa sông, những người dòng Sát-lỵ, dòng Bà-la-môn,
dòng Tỳ-xá, dòng Thủ-đà hay dòng Phả-la-đọa, dòng Chiên-đà-la, vân vân... khi
dựng nhà mới, thì đào giếng mà lấy nước, đào đất ra một thước, thì trong đó có
một thước hư-không, như vậy cho đến đào đất ra một trượng, thì trong đó lại
được một trượng hư-không, hư-không nông hay sâu, tùy đào đất ra nhiều hay ít.
Hư-không đó là nhân đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sinh?
A-nan, nếu hư-không đó không nhân gì mà tự sinh, thì khi trước khi chưa đào
đất, sao nơi đó lại không trống-rỗng, mà chỉ thấy đất liền, hẳn không
thông-suốt. Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất ra, phải thấy hư-không vào; nếu đất
ra trước, mà không thấy hư-không vào, thì làm sao hư-không lại nhân đất mà ra.
Còn nếu không ra, không vào, thì hư-không với đất vốn không khác nhau; không
khác tức là đồng, thì khi đất ra, sao hư-không lại không ra. Nếu nhân đào mà
ra, thì phải đào ra hư-không, chứ không đào ra đất; nếu không nhân đào mà ra,
thì tự đào ra đất, làm sao lại thấy hư-không?
Ông hãy xét cho kỹ, nhận-rõ xét-chín: Đào, thì do tay người, theo phương
hướng mà vận-chuyển, đất, thì từ nơi đất liền mà dời đi, còn hư-không, như vậy,
thì nhân đâu mà ra. Đào là thật sự, hư-không là rỗng trống, không có tác-dụng
gì với nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ hư-không không do đâu mà
tự ra. Nếu cái hư-không đó, bản-tính viên-mãn cùng khắp, không có lay-động, thì
nên biết hiện-tiền hư-không và bốn thứ địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là năm
đại, tính thật viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.
A-nan, tâm ông mê-muội, không ngộ được bốn đại vốn là tính Như-lai-tạng,
ông hãy xét cái hư-không là ra, là vào hay không ra, không vào. Ông toàn không
biết trong Như-lai-tạng, tính giác là chân-không, tính không là chân-giác,
bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với
lượng hay-biết. A-nan, như một giếng trống không, thì hư-không sinh trong một
giếng; hư-không thập phương, thì cũng như vậy. Không-đại cùng khắp mười phương,
đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên
và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn
không có nghĩa chân-thật.
"A-nan, kiến-đại có giác-quan mà không phân-biệt, nhân các thứ sắc,
không mà có. Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ-đà, sớm mai thì sáng, ban đêm thì
tối, đến lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, vắng trăng thì tối; những tướng
sáng, tối ấy do cái thấy phân-tách. Cái thấy đó, lại là đồng một thể với các
tướng sáng, tối và cả hư-không, hay không đồng một thể. Hoặc cũng đồng, cũng
không phải đồng, hoặc cũng khác, cũng không phải khác?
A-nan, nếu cái thấy đó, cùng với sáng, tối và hư-không vốn là một thể, thì
cái sáng, cái tối tiêu-diệt lẫn nhau, khi tối, thì không sáng, khi sáng thì
không tối; nếu như cái thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng, cái thấy
phải tiêu mất; nếu cùng một thể với cái sáng, thì khi tối, cái thấy phải diệt
rồi, mà đã diệt, thì làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối. Còn như sáng và
tối khác nhau, còn cái thấy thì không sinh không diệt, thì làm sao lại thành
đồng một thể được?
Nếu cái thấy đó không phải đồng một thể với cái tối và cái sáng, thì ngoài
cái sáng, cái tối và hư-không ra, ông hãy phân-tách cái thấy thành hình-tướng
gì; rời cái sáng, cái tối và hư-không, cái thấy đó cũng đồng như lông rùa sừng
thỏ; nếu tách hẳn ba thứ sáng, tối và hư-không, thì do đâu mà thành-lập được
cái thấy?
Sáng và tối trái-ngược lẫn nhau, làm sao hoặc cũng là đồng; rời ba thứ
sáng, tối và hư-không, cái thấy vốn không còn gì, làm sao hoặc cũng là khác.
Bên hư-không, bên cái thấy, vốn không có bờ-cõi, làm sao lại không phải đồng;
thấy cái tối, thấy cái sáng, tính không dời-đổi, làm sao lại không phải khác?
Ông hãy xét cho kỹ, suy-xét chín-chắn, nhận cho cùng, xét cho rõ, sáng là
do mặt trời, tối là do đêm không trăng, thông-suốt thuộc về hư-không, ngăn-bịt
thuộc về đất liền còn cái thấy, như vậy nhân đâu mà ra. Cái thấy có giác-quan,
hư-không thì không hay-biết, không phải hòa, không phải hợp; không lẽ cái thấy,
không do đâu mà tự phát ra. Còn như tất-cả các sự thấy, nghe, hay, biết,
bản-tính viên-mãn cùng khắp, vốn không lay-động, thì nên biết kiến-đại cùng với
hư-không không bờ-bến, không lay-động và bốn món đại : địa, thủy, hỏa, phong,
có lay-động, đều gọi là sáu đại, tính thật là viên-dung, vốn là tính
Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.
A-nan, tính ông chìm-đắm, không ngộ được những sự thấy, nghe, hay, biết của
ông vốn là tính Như-lai-tạng; ông hãy xét những thấy, nghe, hay, biết, đó là
sinh hay diệt, là đồng hay là khác, là không phải sinh, không phải diệt, hay
không phải đồng, không phải khác. Ông chưa từng biết trong Như-lai-tạng, cái
thấy nơi tâm-tính là cái tính-minh của bản-giác; cái tính-minh của bản-giác
biểu-lộ ra nơi cái thấy, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm
chúng-sinh đáp-ứng với lượng hay-biết.
Như nơi nhãn-căn, cái thấy cùng khắp pháp-giới, thì cái biết nghe, biết
ngửi, biết nếm, biết xúc, biết các pháp, công-năng nhiệm-mầu sáng-suốt cũng
cùng khắp pháp-giới, đầy-đủ thập phương hư-không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà
phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là
những phân-biệt so-đo của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa
chân-thật.
"A-nan, thức-đại không có nguồn-gốc, nhân nơi sáu thứ căn, trần
giả-dối phát ra. Nay ông hãy xem khắp thánh-chúng trong Hội này; ông dùng con
mắt lướt qua, mắt ông trông khắp, chỉ như bóng trong gương, không phân-tách
riêng-biệt. Cái thức ông, trong ấy theo thứ lớp chỉ ra đây là ông Văn-thù, đây
là ông Phú-lâu-na, đây là ông Mục-kiền-liên, đây là ông Tu-bồ-đề, đây là ông
Xá-lỵ-phất. Cái thức nhận-biết như thế sinh ra do cái thấy, do các tướng, do
hư-không, hay không nhân gì bỗng-nhiên sinh ra?
A-nan, nếu cái thức của ông sinh ra do cái thấy; mà như không có các tướng
sáng, tối và sắc, không, thì không còn cái thấy của ông; cái thấy còn không có,
do đâu mà phát ra được cái thức? Nếu cái thức của ông sinh ra do các tướng, chứ
không do cái thấy, thì đã không thấy sáng, cũng không thấy tối; sáng và tối đã
không thấy, thì cũng không có sắc, không; các tướng kia còn không có, thì cái
thức do đâu mà phát ra? Nếu cái thức sinh ra do hư-không, ngoài các tướng và
ngoài cái thấy, thì ngoài cái thấy không có cảm-giác, tự-nhiên không thể biết
được cái sáng, cái tối, các sắc-tướng và hư-không; ngoài các tướng, thì không
có các duyên của tiền-trần, sự thấy, nghe, hay, biết, không do đâu mà thành-lập
được. Ngoài hai thứ căn trần ra, nếu là không, thì cũng đồng như không có, còn
nếu là có, thì cũng không đồng như các vật, dầu cho phát ra cái thức của ông,
thì đem ra mà phân-biệt cái gì?
Nếu cái thức không nhân gì bỗng-nhiên mà phát ra, làm sao lại không
phân-biệt mặt trăng sáng, trong lúc mặt trời đứng bóng?
Ông hãy xét kỹ, nhận-xét chín-chắn, cái thấy gá vào mắt của ông, các tướng
thì trả về cho tiền-cảnh, cái gì có thể hình-trạng được, thì mới thành có, cái
gì không có tướng, thì thành ra không; còn cái thức như vậy, nhân đâu mà ra?
Cái thức thì lay-động, cái thấy thì đứng-lặng, không phải hòa, không phải
hợp, cho đến các sự nghe, ngửi, hay, biết, cũng đều như vậy. Không lẽ cái thức
nhận-biết không do đâu mà phát ra.
Nếu cái thức đó không do đâu, thì nên biết cái thức-đại nhận-biết và cái
căn-đại thấy, nghe, hay, biết, vẳng-lặng cùng khắp, bản-tính không nương vào
đâu mà có; hai món đại ấy cùng với hư-không, địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là
bảy đại, tính thật là viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không
diệt.
A-nan, tâm ông nông-nổi, không ngộ được cái nhận-biết các điều thấy-nghe,
vốn là tính Như-lai-tạng. Ông hãy xét sáu cái thức là đồng hay là khác, là
không hay là có, là không phải đồng, không phải khác, hay không phải không,
không phải có. Ông vốn không biết trong Như-lai-tạng, cái thức nơi tâm-tính là
cái tác-dụng nhận-biết của tính-minh bản-giác, và tính-minh bản-giác thật là
chân-tính của thức-đại; bản-giác diệu-minh yên-lặng cùng khắp pháp-giới,
ẩn-hiện thập-phương hư-không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian
không biết, lầm là nhân-duyên, và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt
của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật".
GIÁC-NGỘ TÁNH NHƯ-LAI-TẠNG
Đem thâm-tâm phụng-sự cõi nước như vi-trần
Làm được như vậy mới gọi là báo ơn Phật
Khi bấy giờ, ông A-nan và cả đại-chúng nhờ Phật nhiệm-mầu chỉ-bày, thân tâm
vắng-lặng, không điều ngăn-ngại. Cả trong đại-chúng đó, mỗi người tự biết
tâm-tính cùng khắp mười phương, trông mười phương hư-không như xem cái vật, cái
lá nắm trong bàn tay; tất-cả những vật có ra trong thế-gian, đều tức là
tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu sáng-suốt. Tâm-tính viên-mãn cùng khắp,
trùm-chứa mười phương, trở lại xem cái thân cha mẹ sinh ra cũng như trong mười
phương hư-không kia, thổi một vi-trần, dầu còn, dầu mất, chẳng khác biển lớn
yên-lặng, nổi lên một bọt nước, dầu sinh hay diệt, cũng không dính-dáng gì. Rõ
vậy tự biết-nhận được tâm-tính bản-lai thường-trụ không diệt, lễ Phật chấp tay,
được cái chưa từng có, ở trước đức Như-lai, nói bài kệ tán-thán Phật:
"Đức Thế-tôn
bất-động,
Tổng-trì tính diệu-trạm,
Nói pháp Thủ-lăng-nghiêm,
Thật hy-hữu trong đời,
Khiến chúng tôi tiêu-diệt
Vọng-tưởng trong ức-kiếp,
Không trải qua tăng-kỳ
Mà chứng được pháp-thân.
Nguyện nay đã chứng-quả
Thành được vị Bảo-vương
Lại hóa-độ như thế
Cho cả hằng-sa chúng.
Đem thâm-tâm phụng-sự
Cõi nước như vi-trần,
Làm được như vậy mới
Gọi là báo ơn Phật.
Cúi xin đức Thế-tôn
Chứng-minh cho chúng tôi,
Thệ-nguyện quyết vào trước
Trong ngũ-trược ác-thế;
Nếu còn một chúng-sinh
Chưa thành được Phật-đạo,
Quyết không ở nơi đó
Chịu chứng-quả Niết-Bàn.
Kính thưa đức Đại-Hùng,
Đại-lực, Đại-Từ-Bi,
Trông-mong lại xét-trừ
Những điều lầm nhỏ-nhiệm,
Cho chúng tôi sớm lên
Đến bậc Vô-Thượng-Giác,
Nơi thập phương thế-giới
Ngồi đạo-trường thuyết-pháp.
Tính hư-không bất-diệt
Dầu có thể tiêu-mất,
Tâm-nguyện chắc-chắn nầy,
Quyết không hề lay-động."
( Diệu trạm tổng trì bất
động tôn,
Thủ Lăng Nghiêm Vương
thế hy hữu.
Tiêu ngã ức kiếp điên
đảo tưởng.
Bất lịch tăng kỳ hoạch
Pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành
Bảo Vương
Hoàn độ như thị Hằng sa
chúng.
Tương thử thâm tâm phụng
trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật
ân.
Phục thỉnh Thế Tôn vị
chứng minh,
Ngũ trược ác thế thệ
tiên nhập.
Như nhất chúng sanh vị
thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê
hoàn.
Ðại hùng đại lực đại từ
bi,
Hy cánh thẩm trừ vi tế
hoặc.
Linh ngã tảo đăng Vô
Thượng Giác,
Ư thập phương giới tọa
đạo tràng,
Thuấn-nhã-đa tánh khả
tiêu vong,
Thước-ca-ra tâm vô động
chuyển.)
QUYỂN IV
NÓI RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG
VÀ CHỈ RA TÁNH-NGHE LÀ THƯỜNG-TRỤ
Diệu lý viên đốn NHƯ LAI TẠNG
TÂM duyên khởi, đức Phật thuyết tới đây, thì những người đương cơ GIÁC
NGỘ VIÊN ĐỐN, VĨNH VIỄN LÌA LÒNG NGHI.
Nhưng hàng NHỊ THỪA PHÁP CHẤP
SÂU NẶNG, nên còn hai đều nghi:
1) "Bạch Thế-tôn, nếu như
hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân vân... trong thế-gian, đều là
tính thanh-tịnh bản-nhiên Như-lai-tạng, thì làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra các
tướng hữu-vi như núi, sông, đất liền, thứ lớp dời-đổi, trước sau quanh-lộn.
-Vì không rõ SỰ LÝ TÁNH
TƯỚNG vốn là NHƯ LAI TẠNG TÂM viên dung vô ngại
2) Bạch Thế-tôn, tính địa-đại là
ngăn-ngại, tính hư-không là rỗng-suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp
pháp-giới.
-Vì không rõ NHÂN DUYÊN MÊ NGỘ
KHÔNG TÁNH vốn là NHƯ LAI TẠNG TÂM lưu xuất ra.
Khi bấy giờ, ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử ở trong đại-chúng, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay
cung-kính mà bạch Phật rằng: Đức Thế-tôn có oai-đức lớn, khéo vì chúng-sinh
diễn-bày Đệ-nhất-nghĩa-đế của Như-lai. Đức Thế-tôn thường cho rằng trong những
người thuyết-pháp, tôi là bậc nhất, song nay tôi nghe pháp-âm nhiệm-mầu của
Như-lai, cũng như người điếc, cách xa trăm bước, nghe tiếng muỗi mạt, vốn đã
không thấy, huống nữa lại nghe. Tuy Phật chỉ rõ, khiến cho tôi trừ được
lầm-lạc, nhưng tôi chưa rõ chỗ rốt-ráo, không còn nghi-hoặc của nghĩa ấy.
Bạch Thế-tôn, như bọn ông A-nan, tuy được khai-ngộ, nhưng chưa trừ hết
tập-khí hữu-lậu, còn bọn chúng tôi là những người đã lên đến bậc vô-lậu trong
Hội nầy, thì tuy đã hết các lậu, nhưng nay nghe pháp-âm của Như-lai vừa dạy,
còn mắc phải những điều nghi-hối.
"Bạch Thế-tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ,
giới, vân vân... trong thế-gian, đều là tính thanh-tịnh bản-nhiên Như-lai-tạng,
thì làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi như núi, sông, đất liền,
thứ lớp dời-đổi, trước sau quanh-lộn.
Lại đức Như-lai nói bốn món đại địa, thủy, hỏa, phong, bản-tính viên-mãn
dung-hòa, cùng khắp pháp-giới, vẳng-lặng thường-trụ. Bạch Thế-tôn, nếu tính
địa-đại cùng khắp, sao lại dung được thủy-đại; nếu tính thủy-đại cùng khắp thì
hỏa-đại không thể phát-sinh; làm sao lại phát-minh hai tính thủy-đại và hỏa-đại
đều cùng khắp hư-không, không diệt lẫn nhau? Bạch Thế-tôn, tính địa-đại
là ngăn-ngại, tính hư-không là rỗng-suốt, làm sao hai đại ấy lại đều cùng khắp
pháp-giới. Tôi nay không biết nghĩa ấy do đâu, xin Phật phát lòng
đại-từ, vén mây mê-lầm cho tôi và trong đại-chúng." Ông Mãn-từ nói lời ấy
rồi, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ-bi vô-thượng của đức Như-lai.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông Phú-lâu-na và các vị A-la-hán lậu-tận
vô-học trong Hội rằng : "Ngày nay Như-lai khắp vì trong Hội nầy chỉ-bày
tính chân-thắng-nghĩa trong thắng-nghĩa, khiến cho ở trong Hội nầy, những hàng
định-tính Thanh-Văn và hết thảy các bậc A-la-hán, chưa được hai phép nhân-không
pháp-không, phát-tâm hướng về thượng-thừa, đều được chỗ tu-hành chân-chính,
thiết-thực không xao-động của cảnh-giới tịch-diệt nhất-thừa. Ông hãy nghe kỹ,
tôi sẽ vì ông mà nói".
Các ông Phú-lâu-na kính vâng pháp-âm của Phật, lẳng-lặng vâng nghe.
Phật dạy: "Ông Phú-lâu-na, như ông vừa nói : Đã là bản-nhiên
thanh-tịnh, làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra có núi sông, đất liền. Vậy ông không
thường nghe Như-lai chỉ-dạy: Tính-giác là diệu-minh, bản-giác là minh-diệu, hay
sao?"
Ông Phú-lâu-na bạch: "Thưa Thế-tôn, vâng, tôi thường nghe Phật chỉ-dạy
nghĩa ấy."
Phật bảo: "Ông bảo cái giác là minh, lại là vì bản-tính nó là minh,
nên gọi nó là giác, hay là vì giác được cái không minh, mà gọi là
minh-giác?"
Ông Phú-lâu-na bạch: "Nếu cái không-minh đó mà gọi là giác, thì nó
không minh được cái gì."
Phật dạy: "Nếu không có sở-minh là không có minh-giác, thì có sở không
phải là giác, mà không sở, lại không phải là minh; và không minh, thì lại không
phải là giác-tính trạm-minh. Vậy tính-giác chắc là minh, do vọng-tưởng mà làm
ra có minh-giác. Giác không có gì là sở-minh, nhân có minh mà lập ra thành sở;
đã giả-dối lập ra có sở, mới sinh ra cái năng hư-vọng của các ông".
"Trong tính không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với
cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập-thành cái đồng. Phát-minh cái đồng,
cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái không đồng, không khác. Rối-loạn như
vậy, đối-dãi với nhau sinh ra lao-lự; lao-lự mãi phát ra trần-tướng, tự vẩn-đục
lẫn nhau; do đó, đưa đến những trần-lao phiền-não. Nổi lên thì thành thế-giới,
lặng xuống thì thành hư-không; hư-không là đồng, thế-giới là khác; cái không
đồng, không khác kia, thật là pháp hữu-vi.
"Cái giác là sáng-suốt, cái hư-không thì không hay-biết, hai cái
đối-đãi với nhau, thành có lay-động, cho nên có phong-luân nắm-giữ thế-giới.
Nhân cái hư-không, mà sinh ra có lay-động, phát-minh tính cứng, thì thành có
ngăn-ngại; các loại kim-bảo đều do minh-giác lập ra tính cứng, cho nên có
kim-luân nắm-giữ cõi nước. Biết cái cứng, thì thành có kim-bảo, rõ cái
lay-động, thì phong-đại phát ra; phong-đại và kim-bảo cọ-xát nhau, cho nên có
hỏa-đại làm tính biến-hóa. Ngọn lửa xông lên, kim-bảo sinh ra tính ướt, cho nên
có thủy-luân trùm khắp các cõi mười phương. Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao
nhau phát-hiện, mà lập-thành tính cứng; chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi;
do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia,
sông ngòi thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy
nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. Thế đất kém thế nước, rút
ra thành cỏ cây, vậy nên rừng-rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.
Vọng-tưởng giao-xen phát-sinh, xoay-vần làm chủng-tử cho nhau; do
nhân-duyên ấy mà thế-giới tiếp-tục.
Lại nữa, Phú-lâu-na, vọng-tưởng chẳng phải gì khác, do tính giác-minh hóa
ra lầm-lỗi; cái sở-minh hư-vọng đã lập, thì phạm-vi của cái năng-minh không
vượt khỏi được. Do nhân-duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt
khỏi sắc, sáu cái vọng: Sắc, hương, vị, xúc vân vân..., đã thành lập, thì do
đó, chia ra có thấy, nghe, hay, biết.
Đồng-nghiệp ràng-buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Cái thấy
phát-minh, thì các sắc phát ra; nhận rõ nơi sự thấy, thì thành có tư-tưởng; rồi
ý-kiến khác nhau, thì thành ra ghét, tưởng-niệm đồng nhau, thì thành ra yêu.
Lan cái yêu ra, thành hạt giống, thu-nạp tưởng-niệm, thành ra cái thai,
giao-xen phát-sinh, hấp-dẫn bọn đồng-nghiệp, nên có nhân-duyên sinh ra
yết-la-lam, át-bồ-đàm, vân vân... Thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh hay hóa-sinh
là tùy phần sở-ưng: Noãn chỉ do tưởng-niệm mà sinh, thai thì nhân ái-tình mà
có, thấp-sinh thì cơ-cảm mà hợp lại, còn hóa-sinh thì phân-ly mà ứng-hiện. Khi
tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay-đổi lẫn nhau, nên các loài chịu
nghiệp-báo cũng theo đó mà lên xuống; do nhân-duyên ấy, chúng-sinh tiếp-tục.
Phú-lâu-na, tư-tưởng thương-yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì
những cha mẹ con cháu trong thế-gian sinh nhau không ngớt, bọn nầy thì lấy
dục-tham làm gốc. Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng-trưởng, tham mãi không
thôi, thì các loài thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh trong thế-gian,
tùy sức mạnh-yếu, ăn-nuốt lẫn nhau; bọn nầy thì lấy sát-tham làm gốc. Lấy thân
người ăn con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười
loài chúng-sinh chết sống, sống chết, ăn-nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sinh ra
tột đời vị-lai, bọn nầy thì lấy đạo-tham làm gốc.
Người nầy mắc nợ thân-mệnh người kia, người kia trả nợ cũ cho người nầy; do
nhân-duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong đường sống chết. Người
nầy yêu cái tâm người kia, người kia ưa cái sắc người nầy, do nhân-duyên ấy,
trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng-buộc. Duy ba món sát, đạo,
dâm làm gốc và vì nhân-duyên đó, nghiệp-quả tiếp-tục.
Phú-lâu-na, ba thứ tiếp-tục điên-đảo ấy, đều do tính sáng-suốt
rõ-biết của giác-minh, nhân rõ-biết phát ra có tướng, theo vọng-tưởng
mà kiến-chấp sinh ra, các tướng hữu-vi núi sông, đất liền thứ lớp dời-đổi, đều
nhân cái hư-vọng đó, mà xoay-vần sau trước".
Ông Phú-lâu-na bạch: "Nếu cái diệu-giác
đó, bản-tính là diệu-minh, cùng với tâm Như-lai, không thêm không bớt, mà không
cớ gì bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi núi sông, đất liền; vậy Như-lai
hiện nay đã chứng được bản-giác diệu-minh, không có phân-biệt, thì đến lúc nào
lại sinh ra núi sông, đất liền và các tập-lậu hữu-vi?"
Phật bảo ông Phú-lâu-na: "Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm
phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy, lại là nhân mê mà có hay nhân
ngộ mà ra?"
Ông Phú-lâu-na bạch: "Người mê như vậy, cũng không nhân mê, cũng không
nhân ngộ. Vì sao? Mê, vốn không có gốc, làm sao lại nhân mê? Còn ngộ, không
phải cái sinh ra mê, làm sao lại nhân ngộ?"
Phật dạy: "Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ-bày
cho được ngộ. Phú-lâu-na, ý ông nghĩ thế nào? Người ấy giải-trừ được cái mê đi,
thì đối với xóm làng đó, còn có sanh mê nữa không?
- Thưa Thế-tôn, không.
- Phú-lâu-na, Như-lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê đó
không có gốc, tính nó rốt-ráo là rỗng-không; xưa vốn không mê, chỉ hình-như có
mê, có giác; giác được cái mê, thì cái mê diệt và giác, không sinh ra mê.
Cũng như người lòa thấy hoa-đốm giữa hư-không, nếu trừ được bệnh lòa, thì
hoa đốm nơi hư-không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư-không mà hoa-đốm kia
đã diệt rồi, lại mong đợi hoa-đốm sinh lại. Ông xét người ấy, là ngu hay là
trí-tuệ?"
Ông Phú-lâu-na bạch: "Hư-không vốn không có hoa-đốm, vì hư-vọng mà
thấy có sinh diệt; thấy hoa-đốm diệt mất nơi hư-không đã là điên-đảo rồi; lại
còn muốn bảo nó sinh lại, thì thật là điên-dại; làm sao còn gọi người điên như
vậy, là ngu hay là trí-tuệ."
Phật dạy: "Ông hiểu như vậy, làm sao còn hỏi tính-giác diệu-minh,
không có phân-biệt của chư Phật Như-lai, lúc nào lại sinh ra núi sông, đất
liền.
Lại như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện thành ròng rồi, thì
không xen-lộn được nữa; cũng như cây đã đốt ra tro, thì không thành cây được
nữa; Bồ-đề Niết-bàn chư Phật Như-lai thì cũng như vậy.
"Phú-lâu-na, ông lại hỏi về địa, thủy, hỏa, phong,
bản-tính viên-mãn dung-hòa, cùng khắp pháp-giới, nghi sao tính nước, tính lửa
lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra hư-không và địa-đại đều cùng khắp
pháp-giới, lẽ ra không dung được nhau.
Phú-lâu-na, ví như hư-không, bản-thể không phải các tướng, mà không
ngăn-cản các tướng phát-huy. Vì sao? Phú-lâu-na, nơi hư-không kia, mặt trời soi
thì sáng, mây kéo thì tối, gió lay động, trời tạnh thì trong, hơi đọng, thì
dục, bụi nổi thì mù, nước đứng thì ánh. Ý ông nghĩ thế nào? Các tướng
hữu-vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sinh, hay nhân hư-không mà có.
Phú-lâu-na, nếu như do các cái kia sinh ra, thì khi mặt trời soi, đã là mặt
trời sáng, mười phương thế-giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa
hư-không, lại còn thấy mặt trời tròn. Nếu là hư-không sáng, thì hư-không phải
tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây-mù, lại không sinh ra sáng-chói. Vậy nên
biết rằng cái sáng đó, không phải mặt trời, không phải hư-không và cũng không
ra ngoài hư-không và mặt trời. Xét cái tướng vốn là vọng, không thể chỉ-bày,
cũng như muốn hoa-đốm hư-không kết-thành quả hư-không, làm sao còn gạn-hỏi cái
nghĩa lấn-diệt lẫn nhau? Xét cái tính, vốn là chân, chỉ là tính-giác diệu-minh,
tính-giác diệu-minh, vốn không phải là nước hay là lửa, làm sao còn hỏi về
nghĩa không dung được nhau?
Bản-tính diệu-minh chân-thật thì cũng như vậy. Ông phát-minh cái hư-không,
thì có hư-không hiện ra; địa, thủy, hỏa, phong, mỗi mỗi phát-minh, thì mỗi mỗi
hiện ra; nếu cùng phát-minh, thì cùng hiện ra.
Thế nào là cùng hiện ra? Phú-lâu-na, như trong một chỗ có nước, hiện ra bóng mặt trời, hai
người đồng xem mặt trời trong nước; rồi một người đi phương Đông, một người đi
phương Tây, thì hai bên đều có mặt trời theo mình cùng đi, một cái về phương
Đông, một cái về phương Tây, không có chuẩn-đích nhất-định. Không nên gạn-hỏi
rằng, mặt trời đó là một, sao lại mỗi cái đi theo mỗi người? Các mặt trời đã
thành hai, làm sao trước kia chỉ hiện ra có một? Hư-vọng quanh-lộn như thế,
không thể lấy gì làm bằng cứ.
"Phú-lâu-na, ông đem cái sắc, cái không, mà lấn-cướp lẫn nhau nơi
Như-lai-tạng, thì Như-lai-tạng theo ông làm sắc, làm không, cùng khắp
pháp-giới; vậy nên trong ấy, gió thổi thì động, hư-không thì lặng, mặt trời thì
sáng, mây mù thì tối: Chúng sinh mê-lầm, trái với giác-tính, hợp với
trần-tướng, cho nên phát ra trần-lao, có các tướng thế-gian.”
"Tôi lấy tính diệu-minh, không diệt không sinh, hợp với Như-lai-tạng,
thì Như-lai-tạng chỉ là tính-giác-diệu-minh, soi khắp pháp-giới; vậy nên trong
ấy, một là vô-lượng, vô-lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, trong lớn hiện ra
nhỏ, đạo-trường bất-động cùng khắp thế-giới mười phương, thân trùm cả hư-không
vô-tận mười phương, nơi đầu một mãy lông, hiện ra cõi Bảo-vương, ngồi trong
vi-trần, chuyển bánh xe pháp lớn; diệt trần-tướng, hợp giác-tính, nên phát ra
tính-giác chân-như nhiệm-mầu sáng-suốt.
"Nhưng Như-lai-tạng bản-tính diệu-viên, không phải là tâm, là không,
là địa, là thủy, là phong, là hỏa; không phải là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý; không phải là sắc, là thanh, hương, vị, xúc, pháp; không phải là
nhãn-thức-giới, cho đến không phải là ý-thức-giới; không phải là minh, là
vô-minh, là hết minh, là hết vô-minh, cho đến không phải là lão, là tử, là hết
lão tử; không phải là khổ, là tập, là diệt, là đạo; không phải là trí, là đắc;
không phải là bố-thí, là trì-giới, là tinh-tiến, là nhẫn-nhục, là thiền-định,
là trí-tuệ, là Ba-la-mật-đa, cho đến cũng không phải là Như-lai, là Ứng-cúng,
là Chính-biến-tri; không phải là Đại-niết-bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã,
đức Tịnh, vì cái đó, đều không là các pháp thế-gian và xuất-thế-gian vậy.”
"Tức cái bản-tính minh-diệu Như-lai-tạng, cũng tức là tâm, là không,
là địa, là thủy, là phong, là hỏa; tức là nhãn, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; tức
là sắc, là thanh, hương, vị, xúc, pháp; tức là nhãn-thức-giới, cho đến là
ý-thức-giới; tức là minh, là vô-minh, là hết minh, là hết vô-minh, cho đến tức
là lão, là tử, là hết lão tử; tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo; tức là trí,
là đắc; tức là bố-thí, là trì-giới, là tinh-tiến, là nhẫn-nhục, là thiền-định,
là trí-tuệ, là Ba-la-mật-đa, cho đến tức là Như-lai, là Ứng-cúng, là
Chính-biến-tri; tức là Đại-niết-bàn, là đức Thường, đức Lạc, đức Ngã, đức Tịnh;
do cái đó, tức là các pháp thế-gian và xuất-thế-gian vậy.”
"Tức cái tính-giác diệu-minh Như-lai-tạng, rời cả các nghĩa
"tức", "phi" và cũng là "tức", là
"phi"; làm sao chúng-sinh ba cõi thế-gian và các hàng Thanh-văn,
Duyên-giác xuất-thế-gian, lấy cái tâm hay-biết sự vật, mà đo-lường được
vô-thượng Bồ-đề của Như-lai, dùng tiếng nói thế-gian, mà vào được tri-kiến của
Phật. Ví như, những cây đàn cầm, sắt, không-hầu, tỳ-bà, tuy có tiếng hay, nhưng
nếu không có ngón tay hay, thì rốt-cuộc cũng không phát ra được. Ông cùng
chúng-sinh thì cũng như vậy. Tâm-tính chân-thật, mỗi
người đều đầy-đủ, nhưng khi tôi ấn ngón tay, thì
hải-ấn phát ra hào-quang, còn các ông tạm móng tâm lên, thì trần-lao đã nổi, do
vì không siêng-năng cầu đạo vô-thượng-giác, ưa nhớ tiểu-thừa, được một ít đã
cho là đủ".
Ông Phú-lâu-na bạch: "Chân-tâm viên-giác diệu-minh của tôi và
của Như-lai, đều viên-mãn không hai, mà tôi, trước kia mắc vọng-tưởng vô-thủy,
ở lâu trong luân-hồi, nay được thánh-thừa, còn chưa rốt-ráo; Thế-tôn, thì khắp
tất-cả các vọng đều diệt trọn, chỉ có diệu-dụng tính chân-thường. Xin hỏi đức
Như-lai, hết thảy chúng-sinh, vì nhân gì mà có vọng, tự che tính diệu-minh, mà
chịu chìm-đắm như vậy?"
Phật bảo ông Phú-lâu-na: "Ông tuy trừ được lòng nghi, nhưng còn những
điều lầm chưa dứt hết. Nay tôi lại đem những việc hiện-tiền thế-gian mà hỏi
ông. Há ông không nghe trong thành Thất-la-phiệt, có anh Diễn-nhã-đạt-đa, buổi
mai lấy gương soi mặt, bỗng-nhiên ưa cái đầu trong gương, lông mày, con mắt có
thể thấy được, rồi giận-trách cái đầu mình, sao lại không thấy mặt mày, cho là
giống yêu-quái, rồi không cớ gì phát điên bỏ chạy. Ý ông nghĩ thế nào, người đó
vì nguyên-nhân gì, vô cớ phát điên bỏ chạy?"
Ông Phú-lâu-na bạch: "Tâm người ấy điên, chứ không có cớ gì
khác."
Phật dạy: "Tính diệu-giác viên-mãn sáng-suốt, bản-lai là diệu-minh cùng-khắp;
đã gọi là vọng, thì làm sao có nhân, nếu có nguyên-nhân, thì sao gọi là vọng?
Chỉ tự các vọng tưởng xoay-vần làm nguyên-nhân cho nhau, theo cái mê, chứa cái
mê, trải qua kiếp số như vi-trần; tuy Phật phát-minh, còn không biết trở về.
Nguyên-nhân cái mê như vậy, là nhân mê tự có, biết cái mê không có nhân, thì
cái vọng không chỗ nương-tựa, còn không có sinh, thì muốn đem cái gì mà làm cái
diệt. Người được đạo Bồ-đề như người tỉnh-giấc kể chuyện trong chiêm-bao; tâm
dầu rõ-ràng, nhưng không thể có nhân-duyên gì lấy được những vật trong
chiêm-bao; huống nữa, cái mê lại không có nhân, vốn không có gì cả. Như anh
Diễn-nhã-đạt-đa trong thành kia, đâu có nhân-duyên, mà tự sợ đầu mình bỏ chạy,
bỗng-nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ngoài đưa tới; dầu chưa hết điên,
cái đầu cũng không hề mất. Phú-lâu-na, tính của cái vọng là như vậy, làm sao
còn có nguyên-nhân được.”
"Ông chỉ không theo phân-biệt ba thứ tiếp-tục nơi thế-gian,
nghiệp-quả, chúng-sinh", thì ba duyên đã đoạn rồi, ba nhân không sinh ra nữa,
và tính điên của anh Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm ông tự hết. Hết, tức là tâm-tính
Bồ-đề trong-sạch sáng-suốt, bản-lai cùng khắp pháp-giới, không do ai đưa lại,
nào cần gì phải tu-chứng nhọc-nhằn vất-vả.
Ví như có người, ở nơi áo mình, buộc một hạt châu như-ý, mà không hay-biết,
nên phải xin ăn rong-ruổi phương xa, nghèo-nàn rách-rưới; tuy người ấy thật
nghèo-nàn, nhưng hạt châu không hề bị mất; bỗng-nhiên có người khôn, chỉ hạt
châu ra cho, thì người ấy muốn gì được nấy, thành giàu-có lớn, rồi mới ngộ được
hạt châu quý-hóa ấy, không phải do ở ngoài đưa tới".
Khi bấy giờ ông A-nan, ở trong đại-chúng, đỉnh-lễ chân Phật, đứng dậy bạch
Phật: "Đức Thế-tôn hiện nói về các nghiệp sát, đạo, dâm. Về ba duyên đoạn
rồi, thì ba nhân không sinh và tính điên anh Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm tự hết;
hết, tức là Bồ-đề, không do người khác đưa tới; như thế, rõ-ràng là nhân-duyên
rồi, làm sao đức Như-lai lại bỏ nghĩa nhân-duyên? Chính tôi, do nhân-duyên, mà
tâm được khai-ngộ.
Bạch Thế-tôn, nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh-văn hữu-học, ít tuổi như
chúng tôi, mà hiện nay, trong Hội nầy, ông Đại-mục-kiền-liên, ông Xá-lỵ-phất,
ông Tu-bồ-đề, vân vân ... cũng từ ông Lão-phạm-chí nghe lý nhân-duyên của Phật,
mà phát-tâm khai-ngộ, được thành quả vô-lậu. Nay Phật dạy rằng Bồ-đề không do
nhân-duyên, thì các thuyết tự-nhiên của bọn Câu-xá-ly, thành Vương-xá, lại
thành đệ-nhất-nghĩa. Xin Phật rủ lòng đại-bi, khai-phá chỗ mê-lầm cho chúng
tôi".
Phật bảo ông A-nan : "Tức như anh Diễn-nhã-đạt-đa trong thành, nếu
diệt-trừ được nhân-duyên tính điên, thì tính không điên tự-nhiên hiện ra; các
lý nhân-duyên, tự-nhiên, cuối-cùng chỉ như vậy."
"A-nan, như cái đầu anh Diễn-nhã-đạt-đa vốn là tự-nhiên, nó đã
tự-nhiên như thế, thì có lúc nào lại không tự-nhiên, vậy vì nhân-duyên gì, mà
sợ cái đầu, phát điên bỏ chạy? Nếu cái đầu tự-nhiên, vì nhân-duyên mà điên, thì
sao không tự-nhiên, vì nhân-duyên mà mất đi? Cái đầu vốn không mất, điên-sợ
giả-dối phát ra, chứ nào có thay-đổi gì, mà phải nhờ đến nhân-duyên. Nếu tính
điên vốn là tự-nhiên và vốn có sẵn tính điên-sợ, thì khi chưa điên, cái điên
núp vào chỗ nào? Nếu tính không điên là tự-nhiên, thì cái đầu vẫn không việc
gì, sao lại phát điên bỏ chạy? Nếu ngộ được cái đầu sẵn có, biết mình vì phát
điên mà bỏ chạy, thì nhân-duyên và tự-nhiên đều là hý-luận."
"Vậy nên tôi nói: Ba duyên đoạn-trừ rồi, tức là tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề
sinh, tâm sinh-diệt diệt, đó chỉ là sinh-diệt. Diệt và sinh đều hết, thì gọi là
vô-công-dụng-đạo. Nếu có tự-nhiên, như vậy là phát-minh tâm tự-nhiên sinh, tâm
sinh-diệt diệt, thế cũng là sinh-diệt và lấy cái không-sinh-diệt, gọi là
tự-nhiên. Cũng như, trong thế-gian các tướng hòa-lẫn thành ra một thể, gọi là
tính hòa-hợp; cái không phải hòa-hợp, thì gọi là tính bản-nhiên. Bản-nhiên
không phải bản-nhiên, hòa-hợp không phải hòa-hợp, hòa-hợp và bản-nhiên đều
rời-bỏ, rời-bỏ và không rời-bỏ đều "phi", câu nói nầy, mới gọi là
pháp không-hý-luận."
"Bồ-đề Niết-bàn còn ở xa-xôi, nếu ông không trải qua nhiều kiếp
siêng-năng tu-chứng, thì tuy ghi-nhớ diệu-lý thanh-tịnh mười hai bộ kinh của
thập phương Như-lai, như cát sông Hằng, cũng chỉ càng thêm hý-luận. Ông tuy nói
lý nhân-duyên, tự-nhiên chắc-chắn rõ-ràng, người đời gọi ông là đa-văn bậc
nhất. Với cái huân-tập đa-văn nhiều kiếp đó, ông không thoát khỏi được nạn
Ma-đăng-già, phải đợi thần-chú Phật-đỉnh của tôi, làm cho lửa dâm trong tâm
nàng Ma-đăng-già hết đi và nàng được quả A-na-hàm, ở trong Phật-pháp thành rừng
tinh-tiến, sông ái khô cạn, mới khiến cho ông được giải-thoát. Vậy nên ông
A-nan, tuy ông nhiều kiếp ghi-nhớ những pháp bí-mật diệu-nghiêm của Như-lai,
cũng không bằng một ngày tu-nghiệp vô-lậu, xa-rời hai khổ ưa-ghét thế-gian. Như
nàng Ma-đăng-già, trước kia là dâm-nữ, do sức thần-chú, tiêu-diệt lòng ưa-muốn,
nay ở trong Phật-pháp, gọi tên là Tính-tỷ-khưu-ni, cùng với mẹ La-hầu-la là
Gia-du-đà-la, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua nhiều đời, nhân vì tham-ái
mà khổ, một niệm huân-tu pháp vô-lậu-thiện, thì người đã ra khỏi ràng-buộc,
người thì được Phật thụ-ký, làm sao, ông còn tự dối mình, mắc-míu mãi trong
vòng nghe-thấy".
Ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, tiêu hết nghi-hoặc, ngộ được
thật-tướng, thân và ý đều yên-lành, được pháp chưa từng có. Rồi lại
thương-khóc, đỉnh-lễ chân Phật, quỳ dài chấp tay mà bạch Phật rằng: "Đức
vô-thượng đại-bi thanh-tịnh Bảo-vương, khéo khai-ngộ cho tâm chúng tôi, dùng
các nhân-duyên như thế, phương-tiện dắt-dìu những kẻ chìm-đắm ra khỏi bể khổ.
Bạch Thế-tôn, nay tôi tuy được vâng nghe pháp-âm như vậy, nhận-biết tâm-tính
diệu-minh Như-lai-tạng cùng khắp thế-giới mười phương, trùm-chứa các cõi Phật
bảo-nghiêm thanh-tịnh trong thập phương quốc-độ; Như-lai lại trách tôi nghe
nhiều mà vô-dụng, không kịp-thời tu-tập. Nay tôi, giống như người lênh-đênh
xiêu-bạt, bỗng-nhiên gặp vị Thiên-vương cho cái nhà tốt; tuy được nhà lớn,
nhưng cốt-yếu phải biết cửa mà vào; xin nguyện đức Như-lai không ngớt lòng
đại-bi, chỉ-bày cho những kẻ mờ-tối trong Hội nầy, rời-bỏ pháp Tiểu-thừa và đều
nhận được con đường phát-tâm tu-tập đi đến vô-dư Niết-bàn của Như-lai, khiến
cho những hàng hữu-học biết cách uốn-dẹp tâm phan-duyên lâu đời, được pháp
tổng-trì, chứng-nhập tri-kiến của Phật". Ông A-nan nói lời ấy rồi, năm vóc
gieo xuống đất, ở trong Hội một lòng, mong đợi từ-chỉ của Phật.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót các hàng Thanh-văn, Duyên-giác trong
Hội, chưa được tự-tại nơi tâm Bồ-đề, và những chúng-sinh phát Bồ-đề-tâm trong
đời mạt-pháp về sau, khi Phật đã diệt-độ rồi, khai-thị cho đường tu-hành
nhiệm-mầu pháp vô-thượng-thừa, và chỉ-dạy ông A-nan với cả đại-chúng rằng:
"Các ông quyết-định phát-tâm Bồ-đề, đối với pháp Tam-ma-đề chư Phật
Như-lai, không sinh mệt-mỏi, thì trước hết, nên rõ hai nghĩa quyết-định, trong
lúc bắt đầu phát-tâm tự-giác."
"Thế nào là hai nghĩa quyết-định trong lúc mới phát-tâm. A-nan, nghĩa
thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời-bỏ phép Thanh-văn, tu thừa Bồ-tát, vào
tri-kiến của Phật, thì nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu-nhân với chỗ
giác-ngộ trong lúc chứng-quả, là đồng hay là khác nhau. A-nan, nếu
trong lúc tu-nhân, đem cái tâm sinh-diệt làm cái nhân tu-hành, đề cầu cho được
cái quả bất-sinh bất-diệt của Phật-thừa, thì thật không thể được. Do
cái nghĩa đó, ông nên xét các pháp, có thể làm ra trong khí-thế-gian, đều phải
thay-đổi diệt mất. A-nan, ông xét các pháp, có thể làm ra trong thế-gian, có
cái gì là không hư-nát, nhưng không bao-giờ nghe hư-không tan-rã, vì sao? Vì
hư-không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước sau không hề tan mất. Thì
trong thân ông, tướng cứng là địa-đại, thấm ướt là thủy-đại, hơi ấm là hỏa-đại,
lay-động là phong-đại; do bốn cái ấy ràng-buộc, mà chia cái tâm-tính diệu-minh
vẳng-lặng, cùng khắp của ông, làm ra cái thấy, cái nghe, cái biết, cái xét, từ
đầu đến cuối, tạo-thành năm lớp ô-trược.
"Thế nào là trược? A-nan, ví như nước trong, bản-nhiên là trong-sạch,
lại như những thứ bụi, đất, tro, cát, bản-chất là ngăn-ngại; hai bên bản-nhiên
thể-chất khác nhau, không hợp nhau được. Có người thế-gian lấy đất bụi kia, ném
vào nước sạch, thì đất mất ngăn-ngại, nước mất trong-sạch, hình-trạng đục-vẩn,
gọi đó là trược; năm lớp ô-trược của ông cũng giống như vậy.
A-nan, ông thấy hư-không khắp thập phương thế-giới. Bên không, bên thấy,
không tách-rời nhau; có cái không mà không thật-thể, có cái thấy mà không
hay-biết, hai bên xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là kiếp-trược.
Thân ông hiện ôm bốn món đại làm tự-thể, che-bít những sự thấy, nghe, hay,
biết, thành bị ngăn-ngại và trở lại làm cho các thứ địa, thủy, hỏa, phong,
thành có hay-biết; các điều đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ hai, gọi là
kiến-trược.
Lại trong tâm ông, những sự nhớ-biết học-tập, phát ra tri-kiến, hiện ra
tướng sáu trần, thì những sự đó, rời tiền-trần không có tướng, rời tri-giác
không có tính, xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ ba, gọi là phiền-não-trược.
Lại tâm ông ngày đêm sinh-diệt không ngừng, tri-kiến thì muốn lưu mãi ở
thế-gian, nhưng nghiệp-báo xoay-vần thì lại thường dời-đổi cõi nầy cõi khác,
những điều đó xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ-tư, gọi là chúng-sinh-trược.
Cái thấy, cái nghe của ông, bản tính vốn không khác nhau, do các trần
cách-trở, mà không duyên-cớ gì, lại sinh ra khác nhau; trong tính thì vẫn biết
nhau, nhưng trong dụng thì trái-ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn
chuẩn-đích, xen-lộn giả-dối thành ra lớp thứ năm, gọi là mệnh-trược.
A-nan, nay ông muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết, xa xa hợp với bốn đức
thường, lạc, ngã, tịnh của Như-lai, thì trước hết, phải lựa-bỏ cỗi-gốc sống
chết, nương theo cái không-sinh-diệt mà thành-tựu tính yên-lặng cùng
khắp. Dùng cái yên-lặng mà xoay các thứ sinh-diệt hư-vọng trở về nơi
bản-giác, được tính không-sinh-diệt của bản-giác làm cái tâm tu-nhân, thì về
sau mới viên-thành chổ tu-chứng của quả-vị. Như lắng nước đục đựng trong một
cái đồ để yên, để yên mãi không lay-động, thì đất cát tự chìm xuống và nước
trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn-dẹp các khách-trần phiền-não; gạn bùn hết
sạch, chỉ còn nước trong, thì gọi là dứt hẳn căn-bản vô-minh; tướng sáng-suốt
đã tinh-thuần, thì tất-cả các điều biến-hiện đều không gây ra phiền-não và hợp
với đức mầu thanh-tịnh của Niết-bàn.
Nghĩa thứ hai là các ông quyết muốn phát-tâm Bồ-đề, nơi thừa Bồ-tát, sinh
lòng đại-dũng-mãnh, quyết-định rời-bỏ các tướng hữu-vi, thì nên xét rõ cỗi-gốc
phiền-não, những cái vô-minh phát-nghiệp và nhuận-sinh vô-thủy đó, là ai làm,
ai chịu?
A-nan, ông tu đạo Bồ-đề, nếu không suy-xét cỗi-gốc phiền-não, thì không thể
biết những căn-trần phiền-não, thì không thể biết những căn-trần hư-vọng, nó
điên-đảo ở chỗ nào; chỗ điên-đảo còn không biết, thì làm sao uốn-dẹp được nó và
chứng được quả-vị Như-lai.
A-nan, ông hãy xem người thế-gian cởi nút, hễ không thấy chỗ thắt nút, thì
không biết cởi, chứ không hề nghe hư-không bị phá-tan; vì sao? Vì hư-không
không có hình-tướng, không thắt, không cởi vậy. Thì như ông hiện nay, sáu thứ
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm mai-mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà;
do đó, từ vô-thủy, thế-giới chúng-sinh sinh ra ràng-buộc, không thể vượt khỏi
thế-gian sự vật.
A-nan, thế nào gọi là thế-giới chúng-sinh? Thế là dời-đổi, giới là
phương-hướng. Nay ông nên biết những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-Nam,
Tây-Nam, Đông-Bắc, Tây-Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Còn quá-khứ,
vị-lai, hiện-tại là thế. Phương-hướng có mười, số lưu-chuyển của thời-gian có
ba, hết thảy chúng-sinh dệt cái vọng mà thành như vậy; nơi sự dời-đổi trong
thân, thế và giới gắn-bó với nhau. Nhưng cái tính của giới đó, tuy là mười
phương, song có chỗ nhất-định có thể chỉ rõ, thì thế-gian chỉ nhận phương Đông,
phương Tây, phương Nam, phương Bắc; phía trên, phía dưới, thì không có vị-trí
rõ-ràng; ở giữa cũng không có chỗ nhất-định. Số bốn đã rõ rồi, nhân với số thế,
thì ba lần bốn, bốn lần ba, xoay-vần là số mười hai, nhân luôn ba lớp, một chục
thành trăm, thành nghìn, thì tổng-quát trước sau, ở trong sáu căn, mỗi mỗi có
thể có đến một nghìn hai trăm công-năng.
A-nan, trong sáu căn đó, ông lại xét-định chỗ hơn, chỗ kém. Như nhãn-căn
xem-thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng, phương trước toàn sáng, phương
sau toàn tối, kể cả ngó qua bên phải bên trái, thì ba phần chỉ thấy được hai;
tóm lại công-năng của nhãn-căn không toàn-vẹn, trong ba phần công-năng thì một
phần không có; vậy nên biết nhãn-căn chỉ có tám trăm công-năng.
Như nhĩ-căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì giống như có xa có
gần, tĩnh thì không có bờ-bến; vậy nên biết nhĩ-căn đầy-đủ một nghìn
hai trăm công-năng.
Như tỷ-căn ngửi-biết cả lúc thở ra, thở vào; chỉ có trong lúc thở ra, thở
vào mà còn thiếu trong lúc hơi thở giao-tiếp; xét nơi tỷ-căn, ba phần còn thiếu
một; vậy nên biết tỷ-căn chỉ có tám trăm công-năng.
Như thiệt-căn phô-bày cùng-tột trí thế-gian và xuất-thế-gian; lời nói có
chừng hạn, nhưng lý thì vô-cùng vô-tận; vậy nên biết thiệt-căn đầy-đủ
một nghìn hai trăm công-năng.
Như thân-căn biết xúc-trần, biết các cảm-xúc trái và thuận; khi hợp lại thì
biết, khi rời ra thì không biết, rời chỉ có một, hợp thì có hai; xét nơi
thân-căn, ba phần còn thiếu một; vậy nên biết thân-căn chỉ có tám trăm
công-năng.
Như ý-căn thầm-lặng dung-nạp tất-cả các pháp thế-gian, xuất-thế-gian trong
mười phương ba đời; dù thánh hay phàm, không pháp nào không bao-dung cùng-tột
bờ-bến; vậy nên biết ý-căn đầy-đủ một nghìn hai trăm công-năng.
A-nan, nay ông muốn ngược dòng sinh-tử, xoay về tột gốc lưu-chuyển, đến chỗ
không sinh-diệt, thì nên xét trong sáu căn hiện đương thụ-dụng, cái gì là hợp,
cái gì là ly, cái gì là sâu, cái gì là nông, cái gì là viên-thông, cái gì là
không viên-mãn. Nếu ngộ được căn-tính viên-thông nơi đó, ngược lại dòng nghiệp
dệt vọng vô-thủy kia và theo được tính viên-thông, thì đối với sự tu-hành nơi
cái căn không viên-thông, hiệu-quả xấp bội, một ngày bằng một kiếp. Tôi
nay đã chỉ rõ sáu căn viên-minh, vốn có những số-lượng công-năng như thế; tùy
ông lựa chọn nơi căn nào, có thể nhập đạo được, thì tôi sẽ phát-minh, để cho
ông được tăng-tiến trên đường tu-hành. Thập-phương Như-lai, nơi mười
tám giới, mỗi giới đều tu-hành được viên-mãn vô-thượng Bồ-đề; trong các giới
đó, cũng không có gì là hơn, là kém. Chỉ vì ông căn-cơ thấp-kém, chưa thể
viên-mãn trí-tuệ, tự-tại trong ấy được, nên tôi bảo ông chỉ đi sâu vào một căn,
đi sâu đến chỗ không còn vọng-tưởng, thì cả sáu căn kia một thời đều thanh-tịnh".
Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, làm sao ngược dòng hư-vọng,
đi sâu vào một căn, lại có thể khiến cho sáu căn một thời đều thanh-tịnh?"
Phật bảo ông A-nan: "Ông nay đã được quả Tu-đà-hoàn, đã diệt được kiến
hoặc của ba cõi thế-gian chúng-sinh, song còn chưa biết những tập-khí hư-vọng
chứa-nhóm trong căn từ vô-thủy; các tập-khí kia, phải nhân tu-đạo rồi mới đoạn
được, huống chi, trong đó còn có rất nhiều phân-loại, số-mục sinh-trụ dị-diệt.
Nay ông hãy xét sáu căn hiện-tiền là một, hay là sáu. A-nan, nếu nói là
một, thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân
sao không nói; còn nếu sáu căn đó quyết-định là sáu, thì như trong Hội nầy, tôi
chỉ-dạy pháp-môn nhiệm-mầu cho ông, trong sáu căn của ông, cái gì lĩnh-thụ?"
Ông A-nan bạch: "Tôi dùng lỗ tai nghe".
Phật dạy: "Lỗ tai ông tự nghe, nào dính gì đến thân với miệng, mà
miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy kính vâng. Vậy nên biết rằng
chẳng phải một, mà cuối-cùng thành sáu, chẳng phải sáu, mà cuối-cùng thành một,
rốt-cuộc cái căn của ông, vốn không phải là một, hay là sáu. A-nan, ông nên
biết cái căn ấy không phải một, không phải sáu; do từ vô-thủy đắm-chấp
trái-ngược, nên nơi tính viên-trạm, sinh ra có cái một, cái sáu. Nay
ông được quả Tu-đà-hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu, nhưng còn chưa quên cái một.
Như cái hư-không, tham-hợp với các khí-mãnh; do hình-trạng khí-mãnh khác
nhau, mà gọi là hư-không khác nhau, đến khi trừ-bỏ khí-mãnh mà xem cái
hư-không, thì nói hư-không là một; chứ cái hư-không kia, làm sao lại vì ông mà
thành đồng hay không đồng, huống nữa, lại gọi là một hay không phải một.
Sáu căn hay-biết của ông thì cũng như vậy.
Do hai thứ sáng và tối, tỏ-bày lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính
yên-lặng, phát ra cái thấy; cái thấy ánh ra thành sắc, kết cái sắc lại thành
căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể con mắt như quả
bồ-đào; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo sắc.
Do hai thứ động và tĩnh, đối-chọi lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính
tính yên-lặng, phát ra cái nghe; cái nghe ánh ra thành tiếng, cuốn cái tiếng
lại thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái tai
như lá mới cuốn; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo tiếng.
Do hai thứ thông và bịt, phát-hiện lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính
tính yên-lặng, phát ra cái ngữi; cái ngửi ánh ra thành hương, thu-nạp cái hương
thành căn, gốc căn, thì gọi đó là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái mủi
như hai móng tay rủ xuống; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo hương.
Do hai thứ nhạt và có vị, tham-chước lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính
tính yên-lặng, phát ra cái nếm; cái nếm ánh ra thành vị, thưởng-thức cái vị
thành, thưởng-thức cái vị thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh,
nhân gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái lưỡi như mặt trăng mới khuyết;
bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo vị.
Do hai thứ ly và hợp, so-sánh lẫn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính tính
yên-lặng, phát ra cái biết xúc; cái biết xúc ánh ra thành xúc, ôm-nắm cái xúc
thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi hình-thể cái thân
như dáng trống cơm, bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo xúc.
Do hai thứ sinh và diệt, tiếp-tục lẩn nhau, nơi tính diệu-viên, làm dính
tính yên-lặng, phát ra cái biết; cái biết ánh ra thành các pháp, tóm-thu các
pháp thành căn, gốc căn, thì gọi là tứ đại thanh-tịnh, nhân gọi cái ý như cái
thấy trong phòng tối; bốn trần của phù-căn rong-ruổi chạy theo pháp".
"A-nan, sáu căn như vậy do tính giác-minh kia chuyển thành minh-giác,
mất tính sáng-suốt, dính với cái vọng mà phát ra hay-biết. Vậy nên ông nay rời
sáng rời tối, thì không có cái thấy, rời động rời tĩnh, thì không có cái nghe,
không thông không bịt, thì cái ngửi không sinh, không vị không nhạt, thì cái
nếm không phát ra, không ly không hợp, thì cái biết xúc vốn không, không diệt
không sinh, thì cái rõ-biết không gá vào đâu.
Ông chỉ đi theo những động-tĩnh, hợp-ly, không vị có vị, thông bịt, sáng
tối, sinh diệt, cả mười hai tướng hữu-vi đó, đi đến rút được một căn ra khỏi
cái dính, phục vào bên trong, phục trở về tính bản-chân, phát ra tính sáng-suốt
bản-lai; tính sáng-suốt đó đã phát-minh, thì năm chỗ dính khác cũng liền đó
được giải-thoát.
Không do tiền-trần mà khởi ra tri-kiến thì cái sáng-suốt không
đi theo căn, chỉ gửi nơi căn mà phát ra; nhân đó sáu căn có thể dùng thay lẫn
nhau.
A-nan, há ông không biết ở trong Hội nầy, ông A-na-luật-đà
không có mắt mà thấy, rồng Bạt-nan-đà không có tai mà nghe, thần-nữ Căng-già
không có mũi mà nghe hương, ông Kiều-phạm-bát-đề không lưỡi mà biết
vị, thần Thuấn-nhã-đa không có thân mà biết xúc, do hào-quang Như-lai ánh ra,
làm cho ông ấy tạm-thời hiện ra có thân, chứ bản-chất của ông là gió, thì
thân-thể vốn không có; các vị Thanh-văn được tịch-diệt trong diệt-tận-định, như
ông Ma-ha-ca-diếp trong Hội nầy, đã diệt ý-căn lâu rồi mà vẫn rõ-biết cùng
khắp, không nhân tâm-niệm.
A-nan, nếu các căn của ông đều được giải-thoát trọn-đủ, thì cái sáng-suốt
trong tâm-tính phát ra; như thế, thì các phù-trần và các tướng biến-hoá trong
thế-gian sự vật đều tiêu mất, như giá gặp nước sôi, ngay đó, liền hóa-thành
vô-thượng tri-giác.
A-nan, như người thế-gian kia, nhóm cái thấy nơi con mắt; nếu bảo nhắm kín,
thì tướng tối hiện ra, cả sáu căn đều tối, đầu và chân giống nhau. Người kia
lấy tay rờ quanh ngoài thân-thể, thì tuy không thấy, nhưng một phen nhận được
đầu và chân rồi, thì cái hay-biết vẫn đồng như trước kia.
Duyên vì cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành ra không thấy, chứ không
có sáng mà tự phát ra cái thấy, thì các thứ tối hẳn không thể làm mờ được. Căn
và trần đã tiêu rồi, làm sao tính giác-minh lại không thành nhiệm-mầu cùng
khắp".
Ông A-nan bạch Phật rằng: "Bạch Thế-tôn, như lời Phật dạy, chỗ
phát-tâm cầu được thường-trụ trong lúc tu-nhân, cốt-yếu cần phải cân-xứng với
những đức-tính trong lúc chứng-quả. Bạch Thế-tôn, như trong quả-vị, nào
là Bồ-đề, Niết-bàn, Chân-như, Phật-tính,
Am-ma-la-thức, Không-như-lai-tạng, Đại-viên-kính-trí; bảy thứ danh-hiệu tuy có khác nhau, nhưng thể-tính đều
thanh-tịnh viên-mãn, vững-chắc như Kim-cương-vương, thường-trụ, không hư-nát.
Nếu cái thấy nghe, ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh, thông bịt,
rốt-ráo không có tự-thể cũng như cái tâm-niệm, rời tiền-trần ra, vốn không có
gì, thì làm sao lại đem cái rốt-ráo đoạn-diệt ấy làm cái nhân tu-hành, để được
bảy quả thường-trụ của Như-lai. Bạch Thế-tôn, nếu rời sáng tối, thì cái thấy
rốt-ráo là không; nếu không có tiền-trần, thì tự-tính tâm-niệm diệt mất, lui
tới vần-xoay, suy-xét chín-chắn, vốn không có tâm tôi và tâm sở của tôi; vậy
đem cái gì làm nhân, để cầu được vô-thượng-giác. Đức Như-lai trước kia nói cái
tính hay-biết yên-lặng là viên-mãn thường-trụ, nhưng đã trái với lẽ thường, thì
rốt-cuộc chỉ thành hý-luận, làm sao nhận được lời nói Như-lai là chân-thật. Xin
Phật rủ lòng đại-từ, mở chỗ mê-chấp cho tôi".
Phật bảo ông A-nan rằng: "Ông học về mặt nghe nhiều, chưa hết các điều
lậu-lạc, trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên-đảo mà cái điên-đảo hiện-thật
trước đó thì chưa biết được, e ông thành-thật còn chưa tin-phục. Nay tôi thử
đem những việc trần-tục để trừ cái nghi của ông." Khi bấy giờ, đức Như-lai
bảo ông La-hầu-la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng: "Nay ông
có nghe chăng?"
Ông A-nan và đại-chúng đều nói: "Có nghe".
Chuông hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe
chăng?"
Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: "Không nghe".
Khi đó, ông La-hầu-la lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông
có nghe chăng?"
Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: "Có nghe".
Phật hỏi ông A-nan: "Thế nào, thì ông có nghe, còn thế nào, thì ông
không nghe?"
Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông nếu đánh lên,
thì chúng tôi được nghe; đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi là
không nghe."
Như-lai lại bảo ông La-hầu-la đánh chuông, rồi hỏi ông A-nan rằng:
"Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông A-nan và đại-chúng đều nói: "Có tiếng".
Ít lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có tiếng
không?"
Ông A-nan và đại-chúng đều đáp: "Không tiếng."
Lát sau, ông La-hầu-la lại đánh chuông, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông,
nay có tiếng không?"
Ông A-nan và đại-chúng đều nói: "Có tiếng".
Phật hỏi ông A-nan: "Thế nào, ông gọi là có tiếng, còn thế nào, thì
gọi là không tiếng?"
Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Tiếng chuông, nếu đánh
lên, thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, tăm-vang đều không còn, thì gọi
là không tiếng".
Phật bảo ông A-nan và đại-chúng rằng: "Hôm nay các ông sao nói
trái-ngược, lộn-xộn như thế?"
Đại-chúng và ông A-nan đồng-thời bạch Phật: "Làm sao Phật bảo chúng
tôi trái-ngược lộn-xộn?"
Phật dạy: "Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe, tôi hỏi về tiếng,
thì ông nói là tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng mà trả lời không nhất-định như
thế, sao lại không gọi là trái-ngược lộn-xộn? A-nan, tiếng tiêu mất, không tăm
vang, thì ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe, thì tính-nghe đã
diệt rồi đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết
được. Biết có, biết không là tự cái tiếng hoặc không, hoặc có, đâu phải
tính-nghe kia vì đó mà có, mà không; nếu tính-nghe thật là không, thì còn cái
gì biết là không nữa.
Vậy nên A-nan, cái tiếng ở trong cái nghe tự có sinh, có diệt, không phải
vì ông nghe cái tiếng sinh diệt, mà làm cho tính-nghe của ông thành có, thành
không. Ông còn lộn-lạo, lầm cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái
thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời các thứ động
tĩnh, đóng mở, thông bịt, thì cái nghe không có tính.
Như người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có người, trong lúc người
kia ngủ, giã một cối gạo; người ấy trong chiêm-bao nghe tiếng giã gạo, lầm
thành vật khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Tức trong
chiêm-bao người ấy cũng lấy làm lạ rằng sao tiếng chuông lại vang lên như cây,
như đá. Khi chợt tỉnh-dậy, liền nghe tiếng chày, thì người ấy tự bảo người nhà
rằng chính trong lúc chiêm-bao, tôi đã lầm tiếng chày nầy là tiếng trống.
A-nan, người đó, trong chiêm-bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng mở,
thông-bịt; hình người kia tuy ngủ nhưng tính-nghe không mờ, dầu cho hình ông
tiêu-tan, thân-mạng dời-đổi diệt mất, làm sao tính-nghe ấy lại vì ông mà
tiêu-diệt được.
Do các chúng-sinh, từ vô-thủy đến nay, đi theo sắc thanh, theo niệm mà
lưu-chuyển, không hề khai-ngộ bản-tính thanh-tịnh diệu-thường; không theo cái
thường, chỉ theo các thứ sinh-diệt, do đó, đời đời bị tạp-nhiễm mà phải
lưu-chuyển.
Nếu bỏ cái sinh-diệt, giữ tính chân-thường; cái sáng-suốt chân-thường
hiện-tiền, thì các tâm-niệm căn, trần, thức, ngay đó đều tiêu mất; tướng
vọng-tưởng là trần, tính phân-biệt là cấu, hai cái đó đã xa-rời, thì pháp-nhãn
của ông liền được trong-suốt, làm sao lại không thành bậc vô-thượng
tri-giác?"
QUYỂN NĂM
CHỈ-RÕ CHÂN VÀ VỌNG KHÔNG CÓ TÍNH,
HỄ THEO TÍNH VIÊN-THÔNG CỞI NÚT
THÌ XOAY VỀ BẢN-GIÁC
Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, tuy Như-lai đã dạy nghĩa
quyết-định thứ hai, song tôi xem trong thế-gian, những người cởi nút, nếu không
biết đầu nút ở đâu, thì chắc không thể cởi được. Bạch Thế-tôn, tôi và các hàng
hữu-học Thanh-văn trong Hội nầy cũng giống như vậy. Từ vô-thủy đến nay, chúng
tôi cùng sinh, cùng diệt với các thứ vô-minh, tuy được thiện-căn nghe nhiều
Phật-pháp thế nầy, nhưng tiếng là xuất-gia mà cũng như người sốt-rét cách nhật;
xin nguyện đức Đại-từ thương-xót kẻ chìm-đắm, chính nơi thân tâm hiện nay, chỉ
cho chúng tôi thế nào là nút, do đâu mà cởi, cũng khiến cho chúng-sinh khổ-não
vị-lai được khỏi luân-hồi, không sa vào ba cõi."
Nói lời ấy rồi, ông A-nan và cả đại-chúng, năm vóc gieo xuống đất, khóc-lóc
thành-khẩn, trông-mong lời khai-thị vô-thượng của đức Như-lai.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và hàng hữu-học trong Hội,
lại cũng vì tất-cả chúng-sinh đời vị-lai tạo cái nhân xuất-thế, làm cái
đạo-nhãn tương-lai; Ngài dùng tay sáng-ngời xoa đỉnh-đầu ông A-nan. Liền khi
ấy, trong tất-cả thế-giới, chư Phật mười phương, sáu thứ rung-động; các đức
Như-lai, số như vi-trần; trong các cõi ấy, mỗi Ngài đều có hào-quang báu từ nơi
đỉnh-đầu phát ra; hào-quang ấy, đồng một thời từ các cõi kia đến rừng Kỳ-đà,
soi nơi đỉnh-đầu của đức Như-lai; tất-cả đại-chúng đều được cái chưa từng có.
Khi bấy giờ, ông A-nan và cả đại-chúng đều nghe các đức Như-lai mười
phương, số như vi-trần, tuy khác miệng, nhưng đồng một lời, bảo ông A-nan rằng:
"Hay thay cho A-nan! Ông muốn biết cái câu-sinh vô-minh là cái đầu nút,
khiến ông phải luân-hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông, chứ không
phải vật gì khác; ông lại muốn biết tính vô-thượng Bồ-đề, khiến ông chóng chứng
đạo-quả an-vui, giải-thoát, vẳng-lặng, diệu-thường, thì cũng chính là sáu căn
của ông, chứ không phải vật gì khác".
Ông A-nan, tuy được nghe pháp-âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch
Phật: "Làm sao cái khiến cho tôi bị luân-hồi, sống chết hay được an-vui,
diệu-thường, cũng đều là sáu căn, chứ không phải vật gì khác?"
Phật bảo ông A-nan: "Căn và trần, đồng một nguồn, cột và cởi không
phải hai, cái thức phân-biệt là luống-dối như hoa-đốm giữa hư-không. A-nan,
nhân cái trần, mà phát ra cái biết của căn, nhân cái căn, mà có ra cái tướng
của trần, tướng-phần sở-kiến và kiến-phần năng-kiến đều không có tự-tính, như
những hình cây lau gác vào nhau.
Vậy nên nay ông chính nơi tri-kiến, lập ra tướng tri-kiến, thì tức là
cỗi-gốc vô-minh; chính nơi tri-kiến, không có tướng tri-kiến, thì đó là vô-lậu
chân-tịnh Niết-bàn, làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác."
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn muốn lặp lại nghĩa nầy mà nói bài kệ rằng:
"Nơi chân-tính
hữu-vi là không,
Vì duyên-sinh, nên giống như-huyễn;
Vô-vi, thì không sinh, không diệt,
Chẳng thật như hoa-đốm hư-không.
Nói cái vọng để tỏ cái chân,
Vọng, chân ấy, cả hai đều vọng;
Còn không phải chân và phi-chân,
Làm sao có năng-kiến, sở-kiến,
Thức ở giữa, không có thật-tính,
Vậy nên, như hình lau gác nhau.
Cột và cởi đồng một sở-nhân,
Thánh và phàm không có hai đường.
Hãy xét tính hình lau gác nhau,
Đâu phải là không hay là có.
Mê-mờ nghĩa đó, là vô-minh,
Phát-minh nghĩa đó, thì giải-thoát.
Cởi nút, tuy phải theo thứ lớp,
Sáu đã cởi, một cũng không còn.
Nơi các căn, chọn tính viên-thông,
Nhập-lưu được, thì thành chánh-giác.
Thức A-đà-na rất nhỏ-nhiệm,
Tập-khí lưu-hành như nước dốc;
E lầm là chân hay phi-chân,
Nên tôi thường không diễn-giảng đến,
Tự-tâm trở-chấp lấy tự-tâm,
Không phải huyễn, thành ra pháp-huyễn.
Không chấp-trước, không gì phi-huyễn
Cả cái phi-huyễn còn không sinh,
Pháp-huyễn, làm sao thành-lập được.
Ấy gọi như-huyễn Tam-ma-đề,
Bảo-giác chắc như Kim-cương-vương,
Không nhiễm, tịnh như diệu-liên-hoa;
Gẩy ngón tay, vượt hàng vô-học;
Pháp ấy, không gì so-sánh được,
Là một đường thẳng vào Niết-bàn,
Của các đức Thế-tôn mười phương".
(Chơn
tánh hữu vi không,
Duyên sanh cố như huyễn,
Vô vi vô khởi diệt,
Bất thật như không hoa.
Ngôn vọng
hiển chư chơn,
Vọng chơn đồng nhị vọng,
Do phi chơn phi chơn,
Vân hà kiến sở kiến?
Trung
gian vô thật tánh,
Thị cố nhược giao lô.
Kết giải đồng sở nhơn,
Thánh phàm vô nhị lộ.
Nhữ quán
giao trung tánh,
Không hữu nhị cu phi,
Mê hối tức vô minh,
Phát minh tiện giải thoát.
Giải kiết
nhân thứ đệ,
Lục giải nhứt diệc vong,
Căn tuyển trạch viên thông,
Nhập lưu thành chánh giác.
Đà-na vi
tế thức,
Tập khí thành bộc lưu.
Chơn phi chơn khủng mê,
Ngã thường bất khai diễn.
Tự tâm
thủ tự tâm,
Phi huyễn thành huyễn pháp,
Bất thủ vô phi huyễn,
Phi huyễn thượng bất sanh,
Huyễn
pháp vân hà lập?
Thị danh diệu liên hoa,
Kim cang vương bảo giác.
Như huyễn tam-ma-đề,
Đờn chỉ
siêu vô học.
Thử A-tì-đạt-ma,
Thập phương Bạc-già-phạm,
Nhất lộ niết-bàn môn.)
Lúc ấy, ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời từ-bi dạy-bảo của Phật, kệ-tụng
tinh-túy, diệu-lý trong-suốt, tâm được khai-ngộ, đồng tán-thán là pháp chưa
từng có.
Ông A-nan chấp tay đỉnh-lễ bạch Phật: "Nay tôi nghe Phật mở lòng
vô-giá đại-từ dạy cho những câu pháp chân-thật thanh-tịnh diệu-thường, nhưng
tâm còn chưa rõ thứ lớp cởi nút, đi đến cởi cả sáu, thì một cũng không còn, xin
Phật rủ lòng đại-bi thương-xót trong Hội nầy và những kẻ tương-lai, bố-thí cho
pháp-âm, rửa-sạch những cấu-nhiễm trầm-trọng của chúng tôi.
Liền khi ấy đức Như-lai, nơi sư-tử-tọa, sửa áo niết-bàn-tăng, vén áo
tăng-già-lê, dựa ghế thất-bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái khăn-hoa của cõi trời Kiếp-ba-la
đã cúng cho ngài, rồi ở trước đại-chúng, cột thành một nút, đưa cho ông A-nan
xem và bảo rằng: "Cái nầy gọi là gì?" Ông A-nan và đại-chúng đều bạch
Phật rằng: "Cái nầy gọi là nút". Lúc ấy đức Như-lai lại cột khăn-hoa
thành một nút nữa và hỏi ông A-nan: "Cái nầy gọi là gì?". Ông A-nan
và đại-chúng lại bạch Phật rằng: "Cái ấy cũng gọi là nút". Phật
tuần-tự cột khăn-hoa như vậy, tổng-cộng thành sáu nút, mỗi khi cột xong một
nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong tay, đưa hỏi ông A-nan: "Cái nầy
gọi là gì?" Ông A-nan và đại-chúng cũng tuần-tự đáp lại Phật: "Cái ấy
gọi là nút". Phật bảo ông A-nan: "Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là
nút, cái khăn-hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ
ba, các ông cũng gọi là nút?"
Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, cái khăn-hoa thêu-dệt quý-báu
nầy vốn chỉ một thể, song theo ý tôi suy-nghĩ, Như-lai cột một lần, thì được
gọi là một nút, nếu cột một trăm lần, thì rốt-cuộc phải gọi là trăm nút, huống
chi, khăn nầy chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không đứng ở số năm, sao
đức Như-lai chỉ cho cái đầu là nút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là
nút?"
Phật bảo ông A-nan: "Cái khăn-hoa báu nầy, ông biết nó vốn chỉ có một
cái, đến khi tôi cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút; ông hãy xem-xét bản-thể
cái khăn nầy là đồng, nhân vì các nút mà hóa ra khác. Ý ông nghĩ sao, khi mới
cột nút ban-đầu, thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì
gọi là nút thứ sáu. Nay, tôi muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, có được
không?"
Bạch Thế-tôn, không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt-cuộc
không phải là cái thứ nhất; dầu cho tôi cố-gắng biện-bạch suốt đời, cũng không
thể làm cho sáu nút đổi tên được".
Phật dạy: "Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về bản-thân, vẫn
do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt-cuộc không thể làm cho sáu nút xáo-lộn lẫn
nhau. Sáu căn của ông thì cũng như vậy; trong thể ráo-rốt đồng nhau, sinh ra
rốt-ráo khác nhau".
Phật bảo ông A-nan: "Chắc hẳn ông không muốn thành ra sáu nút và trông
mong chỉ thành một thể, thì ông phải làm thế nào?".
Ông A-nan bạch: "Nếu còn những nút đó, thì thị phi sôi-nổi, trong đó,
tự sinh ra nút nầy không phải nút kia, nút kia không phải nút nầy. Nếu ngày
nay, đức Như-lai cởi-bỏ tất-cả, không sinh nút nữa thì, không có bỉ thử, còn
không gọi là một, làm sao mà thành sáu được".
Phật dạy: "Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì cũng như thế.
Do từ vô-thủy, tâm ông điên-loạn, tri-kiến vọng-phát ra, vọng-phát mãi không
thôi, làm cho tri-kiến sinh bệnh, phát ra trần-tướng; như trông con mắt
mỏi-mệt, thì có hoa-đốm lăng-xăng; tất-cả những tướng thế-gian, núi sông, đất
liền, sống chết, Niết-bàn, không nhân gì rối-rít khởi lên, trong tính sáng-suốt
yên-lặng, đều là những tướng hoa-đốm điên-đảo do bệnh mê-lầm phát-ra".
Ông A-nan bạch: "Cái bệnh mê-lầm giống như cái nút kia, làm sao cởi-bỏ
cho được?"
Đức Như-lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi
ông A-nan rằng: "Thế nầy có cởi được chăng?"
Thưa Thế-tôn, không.
Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông A-nan: "Thế
nầy có cởi được chăng?"
Thưa Thế-tôn, không.
Phật bảo ông A-nan: "Nay tôi lấy tay kéo mối bên phải, bên trái mà
rốt-cuộc không cởi được, vậy ông dùng phương-tiện thế nào mà cởi cho
được".
Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nên mở nơi trung-tâm cái nút
thì tan-rã ngay".
Phật bảo ông A-nan: "Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút thì phải cởi
nơi trung-tâm.
A-nan, tôi nói Phật-pháp do nhân-duyên sinh, không phải lấy những tướng
hòa-hợp thô-phù của thế-gian. Như-lai phát-minh các pháp thế-gian và
xuất-thế-gian, đều biết rõ bản-nhân của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho
đến một giọt mưa ở ngoài hằng-sa thế-giới cũng biết số-mục, hiện-tiền các thứ
cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, đều rõ nguyên-do.
Vậy nên A-nan, tùy tâm ông lựa-chọn nơi sáu căn; nếu trừ được cái nút nơi căn
ấy rồi, thì trần-tướng tự tiêu-diệt; các vọng đã tiêu-mất, thì chả phải chân là
gì.
"A-nan, nay tôi lại hỏi ông: "Cái khăn-hoa nầy hiện có sáu nút,
nếu đồng một thời cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ hết được chăng?"
-Thưa Thế-tôn, không. Những cái nút nầy, khi cột lại, vốn có thứ lớp, thì
ngày nay cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại
không đồng một thời, thì khi cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?
Phật dạy: "Việc cởi-trừ cái nút nơi sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy
khi bắt đầu cởi ra, thì trước hết được nhân-không, đến khi tính-không viên-mãn
sáng-suốt, thì giải-thoát pháp-chấp. Pháp-chấp được giải-thoát rồi, cả cái nhân-không
và pháp-không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ-tát do Tam-ma-đề mà chứng được
vô-sinh-nhẫn".
TRÌNH-BÀY CHỖ NGỘ,
XIN CHỈ-DẠY CĂN-TÍNH VIÊN-THÔNG
Ông A-nan và cả đại-chúng, nhờ Phật khai-thị, tuệ-nhãn được viên-dung,
thông-suốt, không còn điều gì nghi-hoặc, đồng-thời chấp tay, đỉnh-lễ nơi hai
chân mà bạch Phật rằng: "Ngày nay, chúng tôi thân tâm sáng-suốt, chóng
được vô-ngại; song tuy ngộ được cái nghĩa một và sáu đều không còn, nhưng còn
chưa rõ căn-tính bản-lai viên-thông. Thưa Thế-tôn, chúng tôi xiêu-giạt bơ-vơ
nhiều kiếp, ngờ đâu lại được dự vào dòng giống của Phật, như đứa con mất sữa,
bổng-nhiên gặp được từ-mẫu. Nếu nhân cơ-hội nầy mà được thành-đạo, chỗ bản-ngộ
phù-hợp với đạo-lý vi-diệu đã được nghe, thì cùng với những người chưa nghe,
không có sai-khác. Xin Phật rủ lòng đại-bi ban cho chúng tôi những pháp bí-mật
trang-nghiêm; thành-tựu lời chỉ-dạy cuối-cùng của Như-lai." Nói lời ấy rồi,
năm vóc gieo xuống đất, lui về an-trụ nơi cơ-cảm sâu-nhiệm, trông mong Phật
tâm-truyền cho.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo khắp các vị Đại-bồ-tát và các vị lậu-tận
Đại-a-la-hán trong chúng rằng: "Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán
sinh-trưởng trong Phật-Pháp, đã chứng-quả vô-học, nay tôi hỏi các ông: Trong
lúc ban-đầu mới phát-tâm, trong thập-bát-giới, ngộ được viên-thông ở giới nào
và do phương-tiện gì được Tam-ma-đề?"
[1]
Bọn ông Kiều-trần-na
VIÊN-THÔNG VỀ THANH-TRẦN
Bọn ông Kiều-trần-na, năm vị tỷ-khưu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ
nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Ở Lộc-uyển và ở Kê-viên, chúng tôi được
xem thấy đức Như-lai khi mới thành-đạo. Chúng tôi do tiếng nói của Phật, tỏ-ngộ
được Tứ-đế. Phật hỏi trong hàng tỷ-khưu, thì trước tiên tôi thưa đã hiểu.
Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là A-nhã-đa. Đi sâu vào bản-tính nhiệm-mầu,
thì âm-thanh thật là viên-dung; tôi do âm-thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi
về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do âm-thanh là hơn cả".
[2]
Ông Ưu-ba-ni-sa-đà
VIÊN-THÔNG VỀ SẮC-TRẦN
Ông Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng: "Tôi cũng được thấy Phật trong lúc mới thành-đạo; tôi
quán-tưởng bất-tịnh, sinh lòng nhàm-chán rời-bỏ tột bậc, ngộ cái tính của các
sắc, từ tướng bất-tịnh đến tướng xương-trắng, tướng vi-trần, rồi tan về
hư-không; cả hai cái không và cái sắc đều không, thành-đạo vô-học. Đức Như-lai
ấn-chứng cho tôi cái tên là Ni-sa-đà; sắc của trần-cảnh đã hết, sắc của
tính-diệu được mật-viên. Tôi do sắc-tướng mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về
viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do sắc-trần là hơn cả".
[3]
Ông Hương-nghiêm-đồng-tử
VIÊN-THÔNG VỀ HƯƠNG-TRẦN
Ông Hương-nghiêm-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật
mà bạch Phật rằng : "Tôi nghe đức Như-lai dạy tôi quan-sát chín-chắn các
tướng hữu-vi. Khi ấy tôi từ-giả Phật, đầu-hôm về tĩnh-tọa trong nhà thanh-trai,
thấy các tỷ-khưu đốt hương trầm-thủy, hơi hương vẳng-lặng bay vào trong mũi
tôi. Tôi quán cái hơi ấy, không phải là cây, không phải là không, không phải là
khói, không phải là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu;
do đó, ý-niệm phân-biệt tiêu-diệt, phát-minh tính vô-lậu. Đức Như-lai ấn-chứng
cho tôi cái hiệu là Hương-nghiêm. Tướng hương tiền-trần bổng diệt, thì
diệu-tính của hương là mật-viên. Tôi do hương-nghiêm mà chứng-quả A-la-hán.
Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do hương-trần là hơn
cả".
[4]
Hai vị Pháp-vương-tử Dược-vương, Dược-thượng
VIÊN-THÔNG VỀ VI-TRẦN
Hai vị Pháp-vương-tử Dược-vương, Dược-thượng, cùng với năm trăm Phạm-thiên
trong Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Từ kiếp vô-thủy, chúng tôi làm lương-y thế-gian, trong miệng thường nếm
những cỏ cây, kim thạch trong thế-giới Sa-bà nầy, số-mục lên đến mười vạn tám
nghìn, biết hết các vị đắng, chua, mặn, nhạt, ngọt, cay vân vân..., cùng với
các vị biến-đổi, do các vị kia hòa-hợp cùng sinh ra; thứ nào là lạnh, thứ nào
là nóng, thứ nào có độc, thứ nào không độc, tôi đều biết cả. Được thừa-sự các
đức Như-lai, rõ-biết bản-tính của vị-trần, không phải không, không phải có,
không phải tức là thân tâm, không phải thoát-ly thân tâm; do phân-biệt đúng
bản-tính vị-trần mà được khai-ngộ. Nhờ Phật ấn-chứng cho anh em chúng tôi cái
danh-hiệu là Dược-vương và Dược-thượng Bồ-tát; nay ở trong Hội nầy làm vị
Pháp-vương-tử. Chúng tôi nhân vi-trần mà giác-ngộ, lên bậc Bồ-tát. Phật hỏi về
viên-thông, như chỗ chứng của chúng tôi, thì do vị-trần là hơn cả".
[5]
Ông Bạt-đà-bà-la
VIÊN-THÔNG VỀ XÚC-TRẦN
Ông Bạt-đà-bà-la, với mười sáu vị Khai-sĩ đồng-bạn, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Bọn tôi, trước kia nơi đức
Phật Uy-âm-vương, nghe Pháp xuất-gia. Trong lúc chư tăng tắm, tôi theo thứ lớp
vào phòng tắm; bỗng nhiên ngộ được chân-tính của nước, đã không rửa bụi, cũng
không rửa mình, chặng giửa yên-lặng, được chỗ không có gì. Túc-tập không quên,
nên đến ngày nay theo Phật xuất-gia, được thành quả vô-học. Đức Phật kia, gọi
tôi tên là Bạt-đà-bà-la. Do phát-minh diệu-tính của xúc-trần, thành được bậc
Phật-tử-trụ. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do xúc-trần là
hơn cả."
[6]
Ông Ma-ha-ca-diếp và bà Tử-Kim-quang tỷ-khưu-ny
VIÊN-THÔNG VỀ PHÁP-TRẦN
Ông Ma-ha-ca-diếp và bà Tử-Kim-quang tỷ-khưu-ny, vân vân... liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Kiếp xưa, trong
cõi nầy, có đức Phật ra đời, tên là Nhựt-nguyệt-đăng diệt-độ rồi, chúng tôi
thắp đèn sáng mãi cúng-dàng xá-lợi, lại lấy vàng-thắm thếp hình-tượng Phật. Từ
đó đến nay, đời nào đời nào, thân-thể thường viên-mãn, sáng-ngời như vàng-thắm.
Bọn Tử-kim-quang tỷ-khưu-ny nầy, tức là quyến-thuộc của tôi lúc đó, cũng đồng
một thời phát-tâm như tôi. Tôi quán trong thế-gian, sáu trần đều dời-đổi
tan-nát, chí dùng pháp không-tịch, tu định diệt-tận, thì thân tâm mới có thể
trải qua trăm nghìn kiếp như một thời-gian gẩy ngón tay. Tôi do quán được các
pháp là rỗng-không, mà thành quả A-la-hán. Đức Thế-tôn bảo tôi tu hạnh đầu-đà
bậc nhất. Diệu-tính của các pháp được khai-ngộ, thì tiêu-diệt các lậu. Phật hỏi
về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do pháp-trần là hơn cả."
[7]
Ông A-na-luật-đà
VIÊN-THÔNG VỀ NHÃN-CĂN
Ông A-na-luật-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng: "Lúc tôi mới xuất-gia, thường thích nằm ngủ, nên đức
Như-lai quở tôi là loài súc-sinh. Nghe lời Phật quở, tôi khóc-lóc tự-trách,
suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Đức Thế-tôn dạy tôi tu pháp
"Lạc-kiến chiếu-minh kim-cương tam-muội". Tôi không do con mắt, xem
thấy mười phương rỗng-suốt tinh-tường như xem cái quả trong bàn tay; đức
Như-lai ấn-chứng cho tôi thành quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ
chứng của tôi, thì xoay cái thấy trở về bản-tính, đó là thứ nhất".
[8]
Ông Chu-lỵ-bàn-đặc-ca
VIÊN-THÔNG VỀ TỶ-CĂN
Ông Chu-lỵ-bàn-đặc-ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Tôi thiếu tụng-trì, không có tuệ đa-văn. Khi mới gặp
Phật, nghe Pháp và xuất-gia, tôi cố nhớ một câu kệ của Như-lai, song trong một
trăm ngày, hễ nhớ trước thì quên sau, mà nhớ sau thì quên trước. Phật thương
tôi ngu-muội, dạy tôi phép an-cư, điều-hòa hơi-thở ra vào. Tôi quán hơi-thở,
cùng-tột các tướng sinh, trụ, dị, diệt nhỏ-nhiệm, đến từng sát-na; tâm tôi
rỗng-suốt, được đại-vô-ngại, cho đến hết các lậu, thành quả A-la-hán, trước
pháp-tọa của Phật, được ấn-chứng thành quả vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như
chỗ chứng của tôi, thì xoay hơi-thở về tính rỗng không, đó là thứ nhất."
[9]
Ông Kiều-phạm-bát-đề
VIÊN-THÔNG VỀ THIỆT-CĂN
Ông Kiều-phạm-bát-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Tôi mắc khẩu-nghiệp, khinh-rẻ, chế-giễu vị sa-môn trong
kiếp quá-khứ, nên đời đời mắc bệnh nhai lại như trâu. Đức Như-lai chỉ-dạy cho
tôi pháp-môn "Nhất-vị thanh-tịnh tâm-địa". Tôi nhờ vậy, mà diệt được
phân-biệt vào Tam-ma-đề; tôi quán tính-biết-vị, không phải thân-thể, không phải
ngoại-vật, liền đó vượt khỏi các lậu thế-gian, bên trong giải-thoát thân tâm,
bên ngoài rời-bỏ thế-giới, xa-rời ba cỏi như chim sổ lồng, rời hết cấu-nhiễm,
tiêu-diệt trần-tướng, nên pháp-nhãn được thanh-tịnh, thành quả A-la-hán. Đức
Như-lai ấn-chứng cho tôi lên bậc vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng
của tôi, trả các vị về phân-biệt, xoay cái biết về tự-tính, đó là thứ
nhất."
[10]
Ông Tất-lăng-già-bà-ta
VIÊN-THÔNG VỀ THÂN-CĂN
Ông Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Tôi lúc mới phát-tâm theo Phật nhập-đạo, thường nghe đức
Như-lai dạy về những việc không vui được trong thế-gian. Lúc đi khất-thực trong
thành, tâm tôi đang suy-nghĩ pháp-môn Phật dạy, giữa đường, không ngờ bị
gai-độc đâm vào chân, cả mình đau-đớn. Tâm-niệm tôi có biết cái đau-đớn ấy; tuy
biết đau-đớn nhưng đồng-thời giác-biết nơi tâm thanh-tịnh, không có cái đau và
cái biết đau. Tôi lại suy-nghĩ: Một thân-thể này, lẽ đâu có hai tính-biết;
nhiếp-niệm chưa bao lâu, thì thân tâm bỗng-nhiên rỗng-không; trong ba lần bảy
ngày, các lậu đều tiêu hết, thành quả A-la-hán; được Phật ấn-chứng lên bậc
vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì thuần một giác-tính,
rời-bỏ thân-thể, đó là thứ nhất."
[11]
Ông Tu-bồ-đề
VIÊN-THÔNG VỀ Ý-CĂN
Ông Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lể nơi chân Phật mà bạch Phật
rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, tâm tôi được vô-ngại, tự nhớ thụ-sinh nhiều
đời như số cát sông Hằng; lúc còn trong thai mẹ, cũng liền biết tính
không-tịch, như thế cho đến mười phương đều thành rỗng-không và cũng khiến cho
chúng-sinh chứng được tính-không; nhờ đức Như-lai phát-minh tính-giác là
chân-không, nên tính-không được viên-mãn sáng-suốt, chứng quả A-la-hán, liền
vào bảo-minh-không-hải của Như-lai, tri-kiến đồng như Phật, được ấn-chứng thành
quả vô-học; tính giải-thoát rỗng-không, tôi là hơn cả. Phật hỏi về viên-thông,
như chỗ chứng của tôi: Các tướng đều xoay vào phi-tướng, năng-phi và sở-phi đều
hết, xoay các pháp trở về chỗ không có gì, đó là thứ nhất."
[12]
Ông Xá-lỵ-phất
VIÊN-THÔNG VỀ NHÃN-THỨC
Ông Xá-lỵ-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, chỗ nhận-thấy của tôi được thanh-tịnh;
tuy tôi thụ-sinh nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy, mà đối với các pháp
biến-hóa thế-gian và xuất-thế-gian, hễ thấy được đều thông-suốt, không có
ngăn-ngại. Tôi ở giữa đường, gặp anh em ông Ca-diếp-ba theo rõi, nói pháp
nhân-duyên, thì ngộ được tâm không có bờ-bến. Tôi theo Phật xuất-gia, chỗ
nhận-thấy sáng-suốt viên-mãn, được pháp đại-vô-úy, thành quả A-la-hán, làm
trưởng-tử của Phật, từ miệng Phật mà sinh ra, do Pháp-Phật mà hóa-sinh. Phật
hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì tính-thấy của tâm-thể phát ra
sáng-suốt, cùng-tột các tri-kiến, đó là thứ nhất."
[13]
Ngài Phổ-hiền Bồ-tát
VIÊN-THÔNG VỀ NHĨ-THỨC
Ngài Phổ-hiền Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Tôi đã từng làm Pháp-vương-tử cho các đức Như-lai như số
cát sông Hằng; thập phương Như-lai dạy các đệ-tử có căn-cơ Bồ-tát, tu hạnh
Phổ-hiền, hạnh đó, do tôi mà đặt tên như vậy. Thưa đức Thế-tôn, tôi dùng
tính-nghe của tâm-thể phân-biệt tất-cả tri-kiến của chúng-sinh. Nếu ở phương
khác, cách ngoài hằng-sa thế-giới, có một chúng-sinh, trong tâm phát được
hạnh-nguyện Phổ-hiền, thì liền trong lúc ấy, tôi cưỡi voi sáu ngà, phân-thân
thành trăm nghìn, đến chỗ người ấy. Dầu cho người ấy nghiệp-chướng còn sâu,
chưa thấy được tôi, tôi cũng thầm-kín xoa đỉnh-đầu người ấy, ủng-hộ an-ủi,
khiến cho được thành-tựu. Phật hỏi về viên-thông, tôi nói chỗ bản-nhân của tôi
là phát-minh tính-nghe của tâm-thể, phân-biệt được tự-tại, đó là thứ
nhất."
[14]
Ông Tôn-đà-la-nan-đà
VIÊN-THÔNG VỀ TỶ-THỨC
Ông Tôn-đà-la-nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Lúc tôi mới xuất-gia theo Phật nhập-đạo, tuy giữ đủ
giới-luật, nhưng trong lúc tu Tam-ma-đề, tâm thường tán-loạn, chưa được quả
vô-lậu. Đức Thế-tôn dạy tôi và ông Câu-si-la quán đầu lỗ-mũi-trắng. Lúc tôi bắt
đầu tu quán ấy, trải qua ba lần bảy ngày, thấy hơi-thở trong mũi ra vào như
khói, thân tâm bên trong sáng-soi thông-suốt thế-giới, khắp nơi thành
trống-không thanh-tịnh, như ngọc lưu-ly; tướng khói lần lần tiêu mất, hơi-thở
hóa thành trắng, đến khi tâm được khai-ngộ, các lậu hết sạch, thì những
hơi-thở ra vào hóa-thành hào-quang, soi khắp thập phương thế-giới, được quả
A-la-hán. Đức Thế-tôn thụ-ký cho tôi sẽ được quả Bồ-đề. Phật hỏi về viên-thông,
tôi dùng phép nhiếp-thu ý-niệm nơi hơi-thở, yên-lặng lâu ngày, phát ra
sáng-suốt, sáng-suốt viên-mãn, diệt hết các lậu, đó là thứ nhất."
[15]
Ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử
VIÊN-THÔNG VỀ THIỆT-THỨC
Ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân
Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tài biện-thuyết được
vô-ngại, tuyên-dương các pháp Khổ, Không, thấu-suốt tướng chân-thật, như thế
cho đến các pháp-môn bí-mật hằng-sa Như-lai, tôi phương-tiện chỉ-bày trong
chúng, được sức vô-úy. Đức Thế-tôn biết tôi có tài biện-thuyết lớn-lao, nên
dùng pháp-luân âm-thanh, dạy tôi tuyên-dương Chính-pháp. Tôi ở trước Phật, giúp
Phật chuyển pháp-luân, nhân nói Chính-pháp, thành quả A-la-hán. Đức Thế-tôn
ấn-chứng cho tôi thuyết-pháp hơn cả. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp-âm
hàng-phục tà-ma ngoại-đạo, tiêu-diệt các lậu, đó là thứ nhất."
[16]
Ông Ưu-ba-ly
VIÊN-THÔNG VỀ THÂN-THỨC
Ông Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật
rằng: "Chính tôi được theo Phật vượt thành xuất-gia, xem thấy đức Như-lai
sáu năm siêng-tu khổ-hạnh, thấy đức Như-lai hàng-phục bọn tà ma, đối-trị các
ngoại-đạo, giải-thoát các lậu tham-dục thế-gian; tôi được nhờ Phật dạy giữ
giới, cho đến ba nghìn uy-nghi, tám vạn hạnh vi-tế, các tính-nghiệp và
giá-nghiệp thảy đều thanh-tịnh; do đó, thân tâm được tịch-diệt, thành quả
A-la-hán, nay làm vị cương-kỷ trong chúng của Như-lai; Phật ấn-chứng cho tôi
giữ giới tu-thân hơn cả trong chúng. Phật hỏi viên-thông, tôi do chấp-trì cái
thân mà thân được tự-tại, lần đến chấp-trì cái tâm mà tâm được thông-suốt, về
sau cả thân và tâm tất-cả đều viên-thông, tự-tại, đó là thứ nhất."
[17]
Ông Đại-mục-kiền-liên
VIÊN-THÔNG VỀ Ý-THỨC
Ông Đại-mục-kiền-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Lúc trước tôi khất-thực giữa đường, gặp ba anh em họ
Ca-diếp-ba là ông Ưu-lâu-tần-loa, ông Già-gia và ông Na-đề, giảng-nói nghĩa-lý
nhân-duyên sâu-xa của Như-lai; tôi liền phát-tâm, được rất thông-suốt; Như-lai
ban cho áo ca-sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng. Tôi đi khắp mười phương được
không ngăn-ngại, phát-minh thần-thông, được trong chúng suy-tôn là vô-thượng,
thành quả A-la-hán. Không những riêng đức Thế-tôn, mà thập phương Như-lai đều
khen sức thần-thông của tôi thanh-tịnh tròn-sáng, tự-tại không e-sợ, Phật hỏi
về viên-thông, tôi do xoay ý-niệm trở về tính viên-trạm nên tâm-trí
mở-bày, như lắng nước đục, lâu thành trong-sáng, đó là thứ nhất."
[18]
Ông Ô-xô-sắt-ma
VIÊN-THÔNG VỀ HỎA-ĐẠI
Ông Ô-xô-sắt-ma, ở trước đức Như-lai, chấp tay đỉnh-lễ nơi hai chân Phật mà
bạch Phật rằng: " Tôi thường nhớ trước kia, trong kiếp xa-xôi, tính có
nhiều tham-dục; lúc ấy, có đức Phật ra đời hiệu là Không-vương, bảo người
đa-dâm như đống lửa hồng và dạy tôi quán khắp những hơi nóng lạnh nơi trăm vóc
tứ-chi; tôi nhờ quán như vậy, mà được giác-tính sáng-suốt lặng-đứng bên trong,
hoá tâm đa-dâm thành lửa trí-tuệ. Từ ấy, các đức Phật đều gọi tên tôi là
Hỏa-đầu. Tôi dùng sức hỏa-quang-tam-muội mà thành quả A-la-hán; trong tâm phát
đại-nguyện, khi các đức Phật thành-đạo, thì làm lực-sĩ, thân ở bên Phật,
uốn-dẹp bọn tà-ma quấy-phá. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp quán các
hơi-ấm nơi thân tâm đều lưu-thông không ngăn-ngại; các lậu đã tiêu, sinh ra ngọn
lửa đại-trí quý-báu, lên bậc vô-thượng-giác, đó là thứ nhất."
[19]
Ngài Trì-địa Bồ-tát
VIÊN-THÔNG VỀ ĐỊA-ĐẠI
Ngài Trì-địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Tôi nhớ kiếp xưa, khi đức Phật Phổ-quang ra đời, tôi làm
tỷ-khưu, thường ở nơi các nẻo đường bến đò, đất-đai hiểm-trở eo-hẹp, không đúng
nguyên-tắc, có thể làm tổn-hại đến xe ngựa, thì tôi đều đắp bằng, hoặc làm
cầu-cống, hoặc gánh đất cát; siêng-năng khó-nhọc như vậy trong suốt thời-gian
vô-lượng Phật ra đời. Hoặc có chúng-sinh, ở nơi chợ-búa, cần người mang đồ-vật,
trước tiên tôi mang hộ đến nơi, đến chốn, để đồ-vật xuống, liền đi ngay, không
lấy tiền-thuê.
Khi đức Phật Tỳ-xá-phù ra đời, thế-gian phần nhiều đói-kém; tôi cõng giúp
người, không kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền; hoặc có xe trâu sa xuống
bùn-lầy, tôi dùng sức-mạnh đẩy bánh xe lên cho khỏi khổ-não. Ông vua trong nước
thuở đó thết-trai mời Phật; lúc ấy, tôi liền sửa-sang đường đất bằng-phẳng, đợi
Phật đi qua. Đức Tỳ-xá Như-lai xoa đỉnh-đầu tôi mà bảo rằng: "Nên bình cái
tâm-địa, thì tất-cả đất-đai trên thế-giới đều bình". Tôi liền khai-ngộ,
thấy vi-trần nơi thân-thể cùng với tất-cả vi-trần tạo-thành thế-giới đều
bình-đẳng không sai khác, tự-tính của vi-trần không chạm-xát nhau, cho đến các
thứ đao-binh cũng không đụng-chạm gì; tôi do nơi pháp-tính ngộ được
vô-sinh-nhẫn, thành quả A-la-hán, xoay tâm về đại-thừa, nên hiện nay, ở trong
hàng Bồ-tát; khi nghe các đức Như-lai dạy về chổ tri-kiến của Phật như
Diệu-liên-hoa, thì tôi chứng-tỏ đầu-tiên, làm vị thượng-thủ. Phật hỏi về
viên-thông, do tôi quán-kỹ hai thứ trần nơi căn-thân và khí-giới đều bình-đẳng
không sai khác, vốn là Như-lai-tạng giả-dối phát ra trần-tướng; trần-tướng đã
tiêu-diệt, thì trí-tuệ được viên-mãn, thành-đạo vô-thượng, đó là thứ
nhất."
[20]
Ngài Nguyệt-quang-đồng-tử
VIÊN-THÔNG VỀ THỦY-ĐẠI
Ngài Nguyệt-quang-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật
mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời,
hiệu là Thủy-thiên, dạy hàng Bồ-tát tu-tập phép quán-thủy để vào Tam-ma-đề;
nghĩa là quán ở trong thân, tính nước không gì ngăn-ngại, quán từ nước-mũi,
nước-bọt cho đến tất-cả các thứ tân, dịch tinh, huyết, đại-tiện, tiểu-tiện;
xoay-vần trong thân đều đồng một tính nước, quán thấy nước trong thân cùng nước
các bể hương-thủy của Phù-tràng-vương-sát ở ngoài thế-giới, đều bình-đẳng không
sai khác.
Tôi trong lúc ấy, mới thành-tựu phép quán nầy, chỉ thấy được nước, chưa
được không có thân; lúc đang làm tỷ-khưu, tọa-thiền trong phòng, tôi có người
đệ-tử dòm cửa sổ trông vào phòng chỉ thấy nước trong, đầy khắp trong phòng, chứ
không có gì; nó nhỏ-dại không biết, liền lấy một miếng ngói ném vào trong nước,
đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi; về sau, tôi xuất-định, liền
thấy đau tim như ông Xá-lỵ-phất bị con quỷ Vi-hại đập. Tôi tự suy-nghĩ: Nay tôi
đã được đạo A-la-hán, đã lâu không còn nhân-duyên mắc bệnh được nữa, làm sao
ngày nay lại sinh ra đau tim, không lẽ đã bị thoái-thất rồi chăng? Khi bấy giờ,
đệ-tử của tôi đi đến, kể lại cho tôi những việc như trước, tôi mới bảo nó, sau
nầy, nếu lại thấy nước, thì nên mở cửa, vào lấy viên ngói trong nước ấy đi.
Đệ-tử vâng-lời tôi bảo; về sau, khi tôi nhập-định, nó lại thấy nước với viên
ngói rõ-ràng, nó liền mở cửa, lấy viên ngói ra. Sau đó, tôi xuất-định, thì
thân-thể lại được như cũ.
Tôi đã gặp được vô-lượng Phật, đến đức Sơn-hải-tự-tại-thông-vương Như-lai,
thì tôi mới được không còn thân riêng và cùng với nước bể hương-thủy thập
phương thế-giới, đồng một tính chân-không, không hai không khác; hiện nay, ở
nơi đức Như-lai, được danh-hiệu là Đồng-chân, dự Hội Bồ-tát. Phật hỏi về
viên-thông, tôi do quán tính nước một mực lưu-thông, được phép vô-sinh-nhẫn,
viên-mãn đạo Bồ-đề, đó là thứ nhất."
[21]
Ngài Lưu-ly-quang Pháp-vương-tử
VIÊN-THÔNG VỀ PHONG-ĐẠI
Ngài Lưu-ly-quang Pháp-vương-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân
Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra
đời, hiệu là Vô-lượng-thanh; ngài khai-thị tính bản-giác diệu-minh cho các hàng
Bồ-tát và dạy quán thế-giới và thân chúng-sinh nầy đều do sức lay-động của
vọng-duyên chuyển-biến ra. Tôi lúc bấy giờ, quán cái không-gian an-lập, quán
cái thời-gian thiên-lưu, quán cái thân-thể khi động, khi yên, quán cái thức-tâm
niệm-niệm sinh-diệt, tất-cả đều lay-động như-nhau, bình-đẳng không sai khác.
Khi bấy giờ, tôi giác-ngộ cái tính các thứ động ấy, đến không do đâu, đi không
tới đâu; tất-cả chúng-sinh điên-đảo, số như vi-trần trong mười phương đều đồng
một hư-vọng; như vậy, cho đến tất-cả chúng-sinh trong một tam-thiên đại-thiên
thế-giới, cũng như hàng trăm loài muỗi-mạt đựng trong một đồ-đựng, vo-vo
kêu-ầm, ở trong gang-tấc, ồn-ào rối-rít. Tôi gặp Phật chưa bao lâu, thì được
pháp vô-sinh-nhẫn; khi bấy giờ, tâm đã khai-ngộ, mới thấy cõi Phật Bất-động
phương Đông, làm vị Pháp-vương-tử. Tôi thừa-sự thập phương Phật, thân tâm phát
ra sáng-suốt, rỗng-thấu không ngăn-ngại. Phật hỏi về viên-thông, tôi do
quan-sát sức lay-động không nương vào đâu, ngộ được tâm Bồ-đề, vào được
Tam-ma-địa, hợp với nhất-diệu-tâm mà thập phương Phật truyền-dạy, đó là thứ
nhất".
[22]
Ngài Hư-không-tạng-Bồ-tát
VIÊN-THÔNG VỀ KHÔNG-ĐẠI
Ngài Hư-không-tạng-Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật
mà bạch Phật rằng: "Tôi cùng đức Như-lai chứng được thân vô-biên nơi đức
Phật Định-quang; lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt-châu-báu lớn, soi-tỏ cõi Phật thập
phương số như vi-trần, đều hóa-thành hư-không; lại ở nơi tự-tâm hiện ra trí
đại-viên-kính, trong ấy phóng ra mười thứ hào-quang, vi-diệu quý-báu, soi khắp
các Phù-tràng-vương-sát cùng-tột hư-không mười phương, đều vào trong viên-kính
ấy, nhập với thân tôi và thân tôi đồng như hư-không, không có ngăn-ngại lẫn
nhau, thân tôi lại khéo vào vi-trần quốc-độ, rộng làm việc Phật, được
đại-tuỳ-thuận. Thần-lực lớn đó là do tôi quán-kỹ tứ-đại không nương vào đâu, do
vọng-tưởng mà có sinh-diệt, hư-không không có hai và cõi Phật vốn là đồng, do phát-minh
được tính-đồng mà chứng vô-sinh-nhẫn. Phật hỏi về viên-thông, tôi quán hư-không
không bờ-bến; vào Tam-ma-đề, diệu-lực viên-mãn sáng-suốt, đó là thứ nhất".
[23]
Ngài Di-Lặc Bồ-tát
VIÊN-THÔNG VỀ THỨC-ĐẠI
Ngài Di-Lặc Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch
Phật rằng: "Tôi nhớ vi-trần-kiếp về trước, có đức Phật ra đời tên là
Nhật-nguyệt-đăng-minh; tôi được xuất-gia theo đức Phật kia, nhưng tâm còn trọng
hư-danh thế-gian, ưa giao-du với các vọng-tộc. Lúc ấy đức Thế-tôn dạy tôi
tu-tập định duy-tâm-thức, tôi được vào Tam-ma-đề; trải qua nhiều kiếp đến nay,
dùng pháp Tam-muội ấy phụng-sự hằng-sa Phật, tâm cầu hư-danh thế-gian diệt hết
không còn. Đến khi đức Phật Nhiên-đăng ra đời, tôi mới được thành-tựu
Vô-thượng-diệu-viên-thức-tâm-tam-muội. Tất-cả cõi nước Như-lai tột bờ-bến
hư-không, cho đến những điều tịnh, uế, có, không, đều do tâm tôi biến-hóa hiện
ra. Bạch Thế-tôn, do tôi rõ được tính duy-tâm-thức như vậy, nên nơi thức-tính,
xuất-hiện vô-lượng Như-lai và hiện nay, tôi được thụ-ký, liền sau đây,
bổ-xứ thành Phật nơi cõi này. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng phép
quán mười phương đều duy-thức, thức-tâm được tròn-sáng, chứng-nhập tính
viên-thành-thật, xa-rời tính y-tha-khởi và tính biến-kế-chấp, được pháp
vô-sinh-nhẫn, đó là thứ nhất".
[24]
Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử
VIÊN-THÔNG VỀ KIẾN-ĐẠI
Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một
pháp-môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang;
lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết,
hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội. Ví-như có
người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp
cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau,
hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ
đời nầy sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau. Thập-phương Như-lai
thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có
ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau.
Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định
thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như
người ướp-hương thì thân-thể có mùi thơm, ấy gọi là
hương-quang-trang-nghiêm. Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp
vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật
hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm
kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."
[25]
Ngài Quán-thế-âm Bồ-tát
VIÊN-THÔNG VỀ NHĨ-CĂN
Thuật lại chỗ tu-chứng
Khi bấy-giờ, ngài Quán-thế-âm Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi
chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, tôi nhớ vô-số hằng-sa kiếp về
trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Quán-thế-âm; từ đức Phật kia, tôi phát-tâm
Bồ-đề. Đức Phật kia dạy tôi, do nghe, nghĩ và tu, mà vào Tam-ma-đề.
Ban đầu, ở trong tính-nghe, vào được dòng viên-thông, không còn tướng
sở-văn nữa. Trần-tướng đã vẳng-lặng, hai tướng động, tĩnh rõ thật không sinh.
Như vậy thêm lần, các tướng năng-văn, sở-văn đều hết. Không dừng lại nơi chỗ
dứt hết năng-văn, sở-văn mà tiến lên nữa, thì năng-giác, sở-giác, đều không.
Không-giác tột bậc viên-mãn, các tướng năng-không, sở-không đều diệt. Sinh-diệt
đã diệt, thì bản-tính tịch-diệt hiện-tiền. Bỗng nhiên, vượt ngoài thế-gian và
xuất thế-gian, sáng-suốt cùng khắp mười phương, được hai cái thù-thắng: Một là,
trên hợp với bản-giác-diệu-tâm thập phương chư Phật, cùng với chư Phật Như-lai
đồng một từ-lực; hai là, dưới hợp với tất-cả chúng-sinh lục-đạo mười phương,
cùng với các chúng-sinh đồng một bi-ngưỡng.
Do từ-lực, hiện ra 32 ứng-thân
Bạch Thế-tôn, do tôi cúng-dường đức Quán-âm Như-lai, nhờ Ngài truyền-thụ
cho tôi Như-huyễn Văn-huân Văn-tu Kim-cương-tam-muội, được cùng chư Phật đồng
một từ-lực, nên làm cho thân tôi thành-tựu 32 ứng-thân vào các cõi-nước.
Bạch Thế-tôn, nếu các vị Bồ-tát vào Tam-ma-đề, tiến-tu pháp vô-lậu,
thắng-giải hiện đã viên-mãn, tôi hiện ra thân Phật, vì họ mà thuyết-pháp, khiến
cho được giải-thoát.
Nếu các hàng hữu-học tu phép Diệu-minh vẳng-lặng, chỗ thắng-diệu đã viên-mãn.
Tôi ở trước người kia, hiện ra thân Độc-giác, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho
được giải-thoát.
Nếu các hàng hữu-học đoạn 12 Nhân-duyên; do các nhân-duyên đã đoạn mà phát
ra thắng-tính và thắng-tính đó hiện đã viên-mãn, tôi ở trước người kia, hiện ra
thân Duyên-giác, vì họ mà thuyết-pháp khiến cho được giải-thoát.
Nếu các hàng hữu-học được phép-không của Tứ-đế, tu đạo-đế vào diệt-đế,
thắng-tính hiện viên-mãn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Thanh-văn, vì họ
mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu chúng-sinh muốn tâm được tỏ-ngộ, không phạm vào cảnh ngũ-dục và muốn
cho thân được thanh-tịnh, tôi ở trước người kia, hiện ra thân Phạm-vương, vì họ
mà thuyết-pháp, khiến cho được giải-thoát.
Nếu các chúng-sinh muốn làm Thiên-chúa, thống-lĩnh chư thiên, tôi ở trước
người kia, hiện ra thân Đế-thích, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, đi khắp mười phương, tôi ở trước
người kia, hiện ra thân Tự-tại-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn thân được tự-tại, bay đi trên hư-không, tôi ở trước
người kia, hiện ra thân Đại-tự-tại-thiên, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn thống-lĩnh quỷ-thần, cứu-giúp cõi-nước, tôi ở trước
người kia, hiện ra thân Thiên-đại-tướng-quân, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho
được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muống sinh nơi thiên-cung, sai khiến quỷ-thần, tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Thái-tử, con của Tứ-thiên-vương, vì họ mà
thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn làm vua cõi người, tôi ở trước người kia, hiện ra
thân Vua, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn làm chủ gia-đình danh-tiếng, thế-gian kính-nhường,
tôi ở trước người kia, hiện ra thân Trưởng-giả vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho
được thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh thích đàm-luận những lời hay, giữ mình trong-sạch, tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Cư-sĩ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh muốn trị cõi-nước, chia-đoán các bang, các ấp, tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Tể-quan, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu các chúng-sinh thích các số-thuật, tự-mình nhiếp-tâm giữ thân, tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Bà-la-môn, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu có người con trai muốn học phép xuất-gia, giữ các giới-luật, tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Tỷ-khưu, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu có người con gái muốn học phép xuất-gia, giữ các cấm-giới, tôi ở trước
người kia, hiện ra thân Tỷ-khưu-ni, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu có người con trai thích giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra
thân Ưu-bà-tắc, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người con gái tự giữ ngũ-giới, tôi ở trước người kia, hiện ra thân
Ưu-bà-di, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người con gái lập-thân trong nội-chính, để tu-sửa nhà nước, tôi ở
trước người kia, hiện ra thân Nữ-chúa hay thân Quốc-phu-nhân, mệnh-phụ,
đại-gia, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có chúng-sinh không phá nam-căn, tôi ở trước người kia, hiện ra thân
đồng-nam, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có người xử-nữ, thích thân xử-nữ, không cầu sự xâm-bạo, tôi ở trước
người kia, hiện ra thân đồng-nữ, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được
thành-tựu.
Nếu có chư-thiên muốn ra khỏi loài trời, tôi hiện ra thân chư-thiên, vì họ
mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có các con rồng muốn ra khỏi loài rồng, tôi hiện ra thân rồng, vì họ mà
thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có dược-xoa muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân
dược-xoa, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có càn-thát-bà muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân
càn-thát-bà, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có a-tu-la, muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân
a-tu-la, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có khẩn-na-la muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân
khẩn-na-la, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có ma-hô-la-già muốn thoát khỏi loài mình; tôi ở trước họ, hiện ra thân
ma-hô-la-già, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có chúng-sinh thích làm người, tu cho được thân người, tôi hiện ra thân
người, vì họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Nếu có loài phi-nhân, hoặc có hình, hoặc không hình, hoặc có tưởng, hoặc
không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân như họ, vì
họ mà thuyết-pháp, khiến cho được thành-tựu.
Ấy gọi là 32 ứng-thân diệu-tịnh, vào các cõi-nước. Những thân ấy đều do
vô-tác-diệu-lực của Văn-huân Văn-tu Tam-muội, mà tự-tại thành tựu.
Do bi-ngưỡng, bố-thí 14 công-đức vô-úy
"Bạch Thế-tôn, do tôi lại dùng vô-tác-diệu-lực của Văn-huân Văn-tu
Kim-cương-tam-muội ấy, cùng với tất-cả lục-đạo chúng-sinh trong mười phương ba
đời, đồng một lòng bi-ngưỡng, nên khiến các chúng-sinh, nơi thân-tâm tôi, được
14 thứ công-đức vô-úy:
Một, là do tôi không tự quán cái tiếng, mà quán cái tâm năng-quán, nên
khiến cho chúng-sinh khổ-não thập phương kia, quán cái âm-thanh, thì liền được
giải-thoát.
Hai, là tri-kiến đã xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh, dầu vào đống
lửa, lửa không thể đốt được.
Ba, là quán cái nghe đã xoay trở lại, khiến cho các chúng-sinh bị nước lớn
cuốn đi, mà không chết-đuối.
Bốn, là diệt hết vọng-tưởng, tâm không sát-hại, khiến các chúng-sinh vào
những nước quỷ, quỷ không thể hại được.
Năm, là huân-tập và thành-tựu được tính-nghe, cả sáu căn đều tiêu về
bản-tính, đồng như cái nghe, cái tiếng, có thể khiến cho chúng-sinh, lúc đương
bị hại, dao gãy từng đoạn, khiến cho các binh-khí chạm vào thân người như cắt
dòng nước, như thổi ánh-sáng, bản-tính không hề lay-động.
Sáu, là huân-tập tính-nghe sáng-suốt thấu khắp pháp-giới, thì các tính
tối-tăm không thể toàn được, có thể khiến cho chúng-sinh, tuy các loài dược-xoa,
la-sát, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-già, phú-dan-na, vân vân ... ở gần một bên, con mắt
chúng vẫn không thể thấy được.
Bảy, là các tiếng đều viên-tiêu, thấy-nghe đã xoay vào tự-tính, rời các
trần-cảnh hư-vọng, có thể khiến cho các chúng-sinh, những thứ cùm, dây, gông,
xiềng không thể dính vào mình được.
Tám, là diệt tướng âm-thanh, viên-thông tính-nghe, phát-sinh từ-lực cùng
khắp, có thể khiến cho chúng-sinh đi qua đường hiểm, giặc không cướp được.
Chín, là huân-tập phát ra tính-nghe, rời các trần-tướng, sắc-dục không
lôi-kéo được, có thể khiến cho tất-cả chúng-sinh đa-dâm, xa rời lòng tham-dục.
Mười, là thuần một thật-tướng của âm-thanh, không còn gì là tiền-trần, căn
và cảnh điều viên-dung, không có năng, sở đối-đãi, có thể khiến cho tất-cả
chúng-sinh nóng-giận, rời-bỏ lòng thù-ghét.
Mười một, là tiêu-diệt trần-tướng, xoay về tính bản-minh, thì pháp-giới,
thân, tâm đều như ngọc lưu-ly, sáng-suốt không ngăn-ngại, có thể khiến cho
những kẻ ngu-ngốc u-mê, xa-rời hẳn sự si-mê tối-tăm.
Mười hai, là viên-dung các hình-tướng, xoay tính-nghe trở về đạo-trường
bất-động, hòa vào thế-gian mà không hủy-hoại thế-giới, cúng-dường được chư Phật
Như-lai như số vi-trần, cùng khắp mười phương, ở bên mỗi mỗi đức Phật, làm vị
Pháp-vương-tử, có thể khiến cho trong pháp-giới, những chúng-sinh không con,
cầu có con trai, sinh ra đứa con trai có phúc-đức trí-tuệ.
Mười ba, là sáu căn viên-thông, soi-sáng không hai, trùm khắp thập phương
thế-giới, thành-lập đại-viên-kính Không-như-lai-tạng, vâng-lĩnh pháp-môn bí-mật
của thập-phương vi-trần Như-lai, không có thiếu-sót, có thể khiến cho trong
pháp-giới, những chúng-sinh không con, cầu có con gái, sinh ra người con gái có
tướng-tốt, đoan-chính, phúc-đức, dịu-dàng, được mọi người yêu-kính.
Mười bốn, là trong tam-thiên đại-thiên thế-giới này, có trăm ức mặt trời,
mặt trăng, các Pháp-vương-tử hiện ở trong thế-gian, số-lượng có đến 62 số cát
sông Hằng, đều tu Phật-pháp, nêu gương-mẫu, giáo-hóa chúng-sinh, tùy-thuận
chúng-sinh, phương-tiện trí-tuệ của mỗi mỗi vị không đồng nhau. Do tôi được
tính viên-thông, phát ra diệu-tính của nhĩ-căn, cho đến thân-tâm nhiệm-mầu bao
trùm khắp pháp-giới, nên có thể khiến cho chúng-sinh chấp-trì danh-hiệu của
tôi, so với những người chấp-trì danh-hiệu của tất-cả các vị Pháp-vương-tử
số-lượng bằng 62 số cát sông Hằng kia, phúc-đức hai bên thật bằng bậc, không
sai khác.
Bạch Thế-tôn, một danh-hiệu của tôi cùng với rất nhiều danh-hiệu kia không
khác, là do tôi tu-tập được tính viên-thông chân-thật. Ấy gọi là 14 sức
thí-vô-úy, đem phúc khắp cho chúng-sinh.
Theo cơ-cảm hiện ra 4 diệu-đức không nghĩ-bàn
"Bạch Thế-tôn, do tôi đã được Đạo tu-chứng viên-thông vô-thượng đó,
nên lại khéo được 4 vô-tác-diệu-đức không nghĩ-bàn:
Một, là do tôi chứng được tính-nghe chí-diệu, nơi tâm-tính không còn có
tướng năng-văn, các sự thấy, nghe, hay, biết không còn cách-biệt và đều thành
một bảo-giác viên-dung thanh-tịnh, nên tôi có thể hiện ra rất nhiều hình-dung
nhiệm-mầu, nói ra vô-số thần-chú bí-mật. Trong đó, hoặc hiện ra một đầu, 3 đầu,
5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, như thế cho đến 108 đầu, 1000 đầu, 10000 đầu,
84000 cái đầu, đầy-đủ các tướng; hoặc hiện ra hai tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay,
14, 16, 18, 20, 24, như thế cho đến 108 tay, 1000 tay, 10000 tay, 84000 cái tay
bắt-ấn; hoặc hiện ra hai mắt, 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, như thế cho đến 108 mắt,
1000 mắt, 10000 mắt, 84000 con mắt báu thanh-tịnh; hoặc khi thì từ, hoặc khi
thì oai, hoặc khi thì định, hoặc khi thì tuệ, cứu-giúp chúng-sinh được rất
tự-tại.
Hai, là do cái nghe, cái nghĩ của tôi, thoát ra ngoài sáu trần như cái
tiếng qua bức tường, không thể bị ngăn-ngại, cho nên diệu-dụng của tôi có thể
hiện mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi chú, hình đó, chú đó đều có thể đem sức vô-úy
mà bố-thí cho các chúng-sinh; vì thế, cõi nước thập phương như vi-trần đều gọi
tôi là vị Thí-vô-úy.
Ba, là tôi tu-tập, phát ra căn-tính bản-diệu viên-thông thanh-tịnh, nên đi
qua thế-giới nào, đều khiến cho chúng-sinh xả-thân, xả đồ trân-bảo, cầu tôi
thương-xót.
Bốn, là do tôi được tâm Phật, chứng đến chỗ rốt-ráo, nên có thể đem các thứ
quý-báu cúng-dường thập phương Như-lai, cả đến chúng-sinh lục-đạo trong pháp-giới,
ai cầu vợ thì được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam-muội thì được Tam-muội,
cầu sống lâu thì được sống lâu, như thế, cho đến cầu Đại-niết-bàn thì được
Đại-niết-bàn.
Kết-luận về viên-thông nhĩ-căn
"Phật hỏi về viên-thông, tôi do văn-chiếu Tam-muội nơi nhĩ-căn mà
duyên-tâm được tự-tại; nhân tướng nhập-lưu, được Tam-ma-đề, thành tựu quả
Bồ-đề, đó là thứ nhất. Bạch Thế-tôn, đức Phật Như-lai kia, khen tôi khéo được
pháp-môn viên-thông, ở trong Đại-hội, thụ-ký cho tôi cái hiệu là Quan-thế-âm;
do tôi thấy-nghe thấu-suốt mười phương, nên danh-tiếng Quan-âm cùng khắp thập
phương thế-giới".
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn nơi sư-tử tọa, năm vóc đồng phóng ra hào-quang
báu, rọi xa trên đỉnh thập phương Như-lai số như vi-trần và trên đỉnh các vị
Pháp-vương-tử, các vị Bồ-tát. Các đức Như-lai kia, năm vóc cũng đồng phóng ra
hào-quang báu, từ các thế-giới số như vi-trần đến rọi trên đỉnh Phật và trên
đỉnh các vị Đại-bồ-tát và A-la-hán trong Hội; rừng cây, ao hồ đều diễn ra
pháp-âm; hào-quang giao-xen cùng nhau như lưới tơ báu. Cả trong đại-chúng được
cái chưa từng có; tất-cả đều được Kim-cương-tam-muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa
sen bách-bảo màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng xen-lộn lẫn nhau, thập
phương hư-không hóa-thành sắc thất-bảo. Đất liền, núi sông của cõi Sa-bà nầy
cùng một lúc không hiện ra, chỉ thấy vi-trần quốc-độ thập-phương hợp-thành một
giới, tiếng hát ca-ngợi tự-nhiên nổi lên.
PHẬT BẢO NGÀI VĂN-THÙ LỰA-CHỌN CĂN VIÊN-THÔNG
Khi bấy-giờ, đức Như-lai bảo Ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử rằng:
"Ông hãy xét trong 25 vị vô-học Đại-bồ-tát và A-la-hán, mỗi mỗi đều
trình-bày phương-tiện hành-đạo lúc đầu, đều nói tu-tập tính viên-thông
chân-thật; chỗ tu-hành của các vị kia, thật không có hơn, kém, trước, sau gì
khác nhau. Nay tôi muốn khiến cho ông A-nan khai-ngộ, thì trong 25 phép tu,
phép nào hợp với căn-cơ của ông ấy; lại, sau khi tôi diệt-độ rồi, chúng-sinh
trong cõi nầy vào thừa Bồ-tát, cầu đạo vô-thượng, thì do pháp-môn phương-tiện
gì, được dễ thành-tựu hơn?"
Tán-thán tính-giác vốn diệu và chỉ rõ mê-vọng vốn không
Ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, vâng từ-chỉ của Phật, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật, dựa vào uy-thần của Phật, nói bài kệ đáp lại:
"Bản-tính biển Giác
khắp đứng-lặng,
Tính khắp đứng-lặng vốn nhiệm-mầu,
Bản-minh chiếu ra hình-như sở,
Lập tướng sở, bỏ mất bản-minh.
Do mê-vọng, mà có hư-không,
Nương hư-không, lập-thành thế-giới;
Tư-tưởng chăm-chú thành cõi-nước,
Hay-biết mọi việc, là chúng-sinh.
Hư-không sinh ra trong đại-giác,
Như một bọt-nước sinh trong bể;
Các nước hữu-lậu, như vi-trần
Đều nương hư-không, mà phát-sinh;
Bọt-nước diệt, vốn không hư-không,
Huống nữa là, hình-tướng ba cõi.
(
Giác hải tánh trừng viên
Viên trừng giác nguyên diệu
Nguyên minh chiếu sanh sở
Sở lập chiếu tánh vong.
Mê vọng hữu hư không
Y không lập thế giới
Tưởng trừng thành quốc độ
Tri giác nãi chúng sanh.
Không sanh đại giác
trung
Như hải nhất âu phát
Hữu lậu vi trần quốc
Giai tòng không sở sanh
Âu diệt không bổn vô
Huống phục chư tam hữu.
)
Nêu rõ phương-tiện có mau chậm
"Bản-tính xoay về,
vốn không hai,
Phương-tiện tu-chứng có nhiều cách,
Cách nào cũng thông vào bản-tính,
Nói thuận, nghịch, chỉ là phương-tiện;
Do hàng sơ-tâm vào Tam-muội,
Bên mau, bên chậm không đồng nhau.
(
Quy nguyên tánh vô nhị
Phương tiện hữu đa môn
Thánh tánh vô bất thông
Thuận nghịch giai phương tiện
Sơ tâm nhập tam muội
Trì tốc bất đồng luân.
)
Lựa ra 6 trần
"Vọng-tưởng kết-lại
thành sắc-trần,
Hay-biết không thể thông-suốt được;
Làm sao, chính chỗ không thông-suốt,
Tu-hành, lại được tính viên-thông?
Âm-thanh xen-lộn với lời nói,
Chỉ nương theo ý-vị danh-từ;
Nếu một, không trùm được tất-cả,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Hương, chỉ lúc hợp, mới rõ-biết,
Lúc rời-cách, thì vốn không có;
Nếu sở-giác, không được thường-xuyên,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Vị, không phải bản-nhiên tự có,
Cần phải nếm, mới biết có vị;
Nếu giác-quan, không thường duy-nhất,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Xúc, do các vật chạm mà biết,
Không vật chạm, thì không thành xúc;
Khi hợp, khi ly, không nhất-định,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Pháp, cũng có tên là nội-trần,
Nương theo trần, tất phải có sở;
Năng sở, không viên-dung nhập một,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
(
Sắc tưởng kết thành trần.
Tinh liễu bất năng triệt.
Như hà bất minh triệt.
Ư thị hoạch viên thông?
Âm thanh tạp ngữ ngôn.
Đãn y danh cú vị.
Nhất phi hàm nhất thiết.
Vân hà hoạch viên thông?
Hương dĩ hợp trung tri.
Ly tắc nguyên vô hữu.
Bất hằng kỳ sở giác.
Vân hà hoạch viên thông?
Vị tánh phi bản nhiên.
Yếu dĩ vị thời hữu.
Kỳ giác bất hằng nhất.
Vân hà hoạch viên thông?
Xúc dĩ sở xúc minh.
Vô sở bất minh xúc.
Hợp ly tánh phi định.
Vân hà hoạch viên thông?
Pháp xưng vi nội trần.
Bằng trần tất hữu sở.
Năng sở phi biến thiệp.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Lựa-ra 5 căn
"Cái thấy, tuy
rỗng-suốt rất xa,
Nhưng thấy trước, mà không thấy sau;
Bốn-bề, còn thiếu mất một nửa,
Thì làm sao, được tính viên-thông!
Mũi, có thở ra và thở vào,
Chặng giữa, hiện không có hơi-thở,
Nếu không viên-dung sự cách-bức,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Ngoài sở-nhập, tính-nếm không thành,
Nhân các vị, mới có hay-biết;
Không có vị, rốt-ráo không có,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Thân biết-xúc với cảnh sở-xúc,
Đều có hạn, không phải cùng khắp;
Nếu không nhận tính không bờ-bến,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Ý-căn xen với các loạn-tưởng,
Đứng-lặng, rốt-cuộc không thấy gì;
Nếu không thoát được các tưởng-niệm,
Thì làm sao, được tính viên-thông?"
(
Kiến tánh tuy đỗng
nhiên.
Minh tiền bất minh hậu.
Tứ duy khuy nhất bán.
Vân hà hoạch viên thông?
Tỵ tức xuất nhập thông.
Hiện tiền vô giao khí.
Chi ly phỉ thiệp nhập.
Vân hà hoạch viên thông?
Thiệt phi nhập vô đoan.
Nhơn vị sanh giác liễu.
Vị vong liễu vô hữu.
Vân hà hoạch viên thông?
Thân dữ sở xúc đồng.
Các phi viên giác quán.
Nhai lượng bất minh hội.
Vân hà hoạch viên thông?
Ý căn tạp loạn tư.
Trạm liễu chung vô kiến.
Tưởng niệm bất khả thoát.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Lựa-ra 6 thức
"Nhãn-thức,
phát-khởi nhờ căn trần,
Gạn-cùng, vốn không có tự-tướng;
Cả tự-thể, còn không nhất-định,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Tâm nghe rỗng-thấu cả mười phương,
Là do sức hoằng-thệ rộng-lớn;
Sơ-tâm, không thể đến chỗ ấy
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Quán đầu-mũi, vốn là duyên-cơ,
Chỉ để nhiếp-tâm được an-trụ;
Nếu cảnh-quán, lại thành sở-trụ,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Thuyết-pháp, diệu-dụng các danh-từ;
Cốt phải đã được khai-ngộ trước;
Nếu lời nói, không phải vô-lậu,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Giữ giới, chỉ câu-thúc cái thân,
Ngoài cái thân, lấy gì câu-thúc;
Vốn không phải cùng khắp tất-cả,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Thần-thông, do túc-tập từ trước,
Nào dính gì ý-thức phân-biệt;
Tưởng-niệm, không thoát-ly sự-vật,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
(
Thức kiến tạp tam hoà.
Cật bổn xưng phi tướng.
Tự thể tiên vô định.
Vân hà hoạch viên thông?
Tâm văn đỗng thập
phương.
Sanh vu đại nhân lực.
Sơ tâm bất năng nhập.
Vân hà hoạch viên thông?
Tỵ tưởng bổn quyền cơ.
Kỳ linh nhiếp tâm trụ.
Trụ thành tâm sở trụ.
Vân hà hoạch viên thông?
Thuyết pháp lộng âm văn.
Khai ngộ tiên thành giả.
Danh cú phi vô lậu.
Vân hà hoạch viên thông?
Trì phạm đãn thúc thân.
Phi thân vô sở thúc.
Nguyên phi biến nhất thiết.
Vân hà hoạch viên thông?
Thần
thông bổn túc nhơn.
Hà quan pháp phân biệt.
Niệm duyên phi ly vật.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Lựa-ra 7 đại
"Nếu quán cái tính
của địa-đại,
Thì nó ngăn-ngại, không thông-suốt;
Pháp hữu-vi, không phải chân-tính,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Nếu quán cái tính của thủy-đại,
Quán-tưởng, đâu phải là chân-thật,
Nếu không đi đến Diệu-chân-như,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Nếu quán hỏa-đại, trừ dâm-dục,
Chán cái có, không phải thật ly;
Phương-tiện, không hợp với sơ-tâm,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Nếu quán cái tính của phong-đại,
Động, tĩnh, đâu phải không đối-đãi;
Đối-đãi, trái với vô-thượng-giác,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Nếu quán cái tính của không-đại,
Hư-không vô-tri, không hay-biết;
Không biết, khác hẳn với Bồ-đề,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Nếu quán cái tính của thức-đại,
Thức sinh-diệt, đâu phải thường-trụ,
Để tâm trong phân-biệt hư-vọng,
Thì làm sao, được tính viên-thông?
Tất-cả các hành đều vô-thường,
Tưởng-niệm, vốn trong vòng sinh diệt,
Nhân và quả, khác nhau như thế,
Thì làm sao, được tính viên-thông?"
)
Nhược dĩ địa tánh quán.
Kiên ngại phi thông đạt.
Hữu vi phi thánh tánh.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ thủy tánh quán.
Tưởng niệm phi chơn thật.
Như như phi giác quán.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ hoả tánh quán.
Yếm hữu phi chơn ly.
Phi sơ tâm phương tiện.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ phong tánh
quán.
Động tịch phi vô đối.
Đối phi vô thượng giác.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ không tánh
quán.
Hôn độn tiên phi giác.
Vô giác dị bồ đề.
Vân hà hoạch viên thông?
Nhược dĩ thức tánh quán.
Quán thức phi thường trụ.
Tồn tâm nãi hư vọng.
Vân hà hoạch viên thông?
Chư hành thị vô thường.
Niệm tánh vô sanh diệt.
Nhân quả kim thù cảm.
Vân hà hoạch viên thông?
)
Hợp với giáo-thể cõi Sa-bà
"Tôi nay xin bạch
đức Thế-tôn,
Phật ra đời trong cõi Sa-bà,
Trong cõi nầy, lối dạy chân-thật,
Thanh-tịnh, do chỗ nói và nghe;
Nay muốn tu-chứngTam-ma-đề,
Thật nên do cái nghe mà vào."
(
Ngã kim bạch Thế Tôn
Phật xuất ta-bà giới
Thử phương chơn giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thật dĩ văn trung nhập.
)
Xưng-tán ngài Quán-thế-âm
"Rời cái khổ và
được giải-thoát,
Hay thay cho ngài Quán-thế-âm;
Trong kiếp số như cát sông Hằng,
Vào cõi Phật như số vi-trần,
Được sức tự-tại rất to-lớn,
Bố-thí vô-úy cho chúng-sinh.
Ngài Quán-thế-âm, tiếng nhiệm-mầu,
Tiếng trong-sạch và tiếng hải-trào,
Cứu đời, mọi việc được yên-lành,
Xuất-thế-gian, được quả thường-trụ."
(
Ly khổ đắc giải thoát
Lương tai Quán Thế Âm
Ư hằng sa kiếp trung
Nhập vi trần phật quốc
Đắc đại tự tại lực
Vô úy thí chúng sanh
Diệu âm Quán Thế Âm
Phạm âm hải triều âm
Cứu thế tất an ninh
Xuất thế hoạch thường trụ.
)
Xưng-tán nhĩ-căn
"Tôi nay kính bạch
đức Như-lai,
Như lời ngài Quán-âm vừa nói:
Ví-như, có người trong yên-lặng,
Chung-quanh mười phương đều đánh trống,
Thì đồng-thời nghe khắp mười nơi,
Như thế, mới là viên-chân-thật.
Mắt bị ngăn-che, không thấy được,
Thiệt-căn, tỷ-căn cũng như vậy,
Thân-căn, lúc hợp mới biết-xúc,
Ý-căn, phân-vân không manh-mối;
Cách tường, nhĩ-căn vẫn nghe tiếng,
Dầu xa, dầu gần, đều nghe được;
Năm căn so-sánh thật không bằng,
Như thế, mới là thông-chân-thật.
Tính thanh-trần, có động, có tĩnh,
Trong tính-nghe thành có, thành không;
Khi không tiếng, gọi là không nghe,
Đâu phải thật không còn tính-nghe;
Không tiếng, tính-nghe đã không diệt,
Có tiếng, tính-nghe đâu phải sinh;
Trọn-rời cả hai thứ sinh-diệt,
Như thế, mới là thường-chân-thật.
Dầu cho, trong lúc đương ngủ mê,
Không vì không nghĩ, mà không nghe;
Tính-nghe ra ngoài sự suy-nghĩ,
Thân, ý không thể so bằng được.
(
Ngã kim khải Như Lai
Như Quán Âm sở thuyết
Thí như nhân tĩnh cư
Thập phương câu kích cổ
Thập xứ nhất thời văn
Thử tắc viên chơn thật
Mục phi quán chướng ngoại
Khẩu tỵ diệc phục nhiên
Thân dĩ hợp phương tri
Tâm niệm phân vô tự
Cách viên thính âm hưởng
Hà nhĩ câu khả văn
Ngũ căn sở bất tề
Thị tắc thông chơn thật
Âm thinh tánh động tĩnh
Văn trung vi hữu vô
Vô thinh hiệu vô văn
Phi thật văn vô tánh
Thinh vô ký vô diệt
Thinh hữu diệc phi sanh
Sanh diệt nhị viên ly
Thị tắc thường chơn thật
Túng linh tại mộng tưởng
Bất vị bất tư vô
Giác quán xuất tư duy
Thân tâm bất năng cập.
)
Chuyển mê thành ngộ
“Hiện nay, trong cõi
Sa-bà nầy,
Các thứ thanh-luận được truyền-bá,
Do chúng-sinh bỏ mất tính-nghe,
Theo thanh-trần, nên bị lưu-chuyển;
A-nan, tuy có tính nhớ dai,
Vẫn không khỏi mắc các tà-niệm;
Há không phải tùy chỗ chìm-đắm,
Xoay ngược dòng, thoát khỏi hư-vọng.
A-nan, ông hãy nghe cho chín,
Nay tôi nương uy-lực của Phật,
Tuyên-nói phép Tam-muội chân-thật,
Chắc như Kim-cương-vương, như-huyễn,
Không nghĩ-bàn, xuất-sinh chư Phật.
Ông nghe tất-cả pháp bí-mật
Của chư Phật, số như vi-trần,
Nếu trước hết, không trừ dục-lậu,
Nghe nhiều, chứa-chấp thành lầm-lỗi;
Dùng cái nghe thụ-trì Phật-pháp,
Sao lại không tự nghe cái nghe?
Tính-nghe không phải tự-nhiên sinh,
Nhân thanh-trần mà có danh-hiệu,
Xoay cái nghe, thoát-ly thanh-trần,
Cái thoát-ly ấy, gọi là gì?
Một căn, đã trở về bản-tính,
Thì cả sáu căn, được giải-thoát,
Thấy, nghe như bệnh lòa huyễn-hóa,
Ba cõi như hoa-đốm hư-không;
Xoay tính-nghe, gốc lòa tiêu-trừ,
Trần-tướng tiêu, giác-tính viên-tịnh.
Tột thanh-tịnh, trí-quang thông-suốt,
Thể tịch-chiếu trùm khắp hư-không,
Trở lại xem các việc thế-gian
Thật giống như chiêm-bao không khác.
Nàng Ma-đăng-già là chiêm-bao
Thì còn ai bắt ông được nữa?
Như các huyễn-sư khéo trong đời,
Làm trò, thành ra các trai, gái;
Tuy thấy các căn đều cử-động,
Cốt-yếu, do cái máy dật dây;
Nghỉ máy, tất-cả đều yên-lặng,
Các trò, trở thành không có tính.
Cả sáu căn cũng giống như thế,
Vốn đều nương một tính tinh-minh
Chia ra thành sáu thứ hòa-hợp;
Một nơi, đã rời-bỏ quay về,
Thì cả sáu, đều không thành-lập;
Trong một niệm, trần-cấu đều tiêu,
Chuyển-thành tính Viên-minh tịnh-diệu,
Còn sót trần-cấu là học-vị,
Sáng-suốt cùng-tột, tức Như-lai.
Hỡi đại-chúng và ông A-nan,
Hãy xoay lại cái nghe điên-đảo,
Xoay cái nghe về, nghe tự-tính,
Nhận tự-tính, thành đạo vô-thượng;
Thật-tính viên-thông là như thế."
(
Kim thử ta-bà quốc.
Thanh luận đắc tuyên minh.
Chúng sanh mê bổn văn.
Tuần thinh cố lưu chuyển.
A-nan túng cường ký.
Bất miễn lạc tà tư.
Khởi phi tùy sở luân.
Triền lưu hoạch vô vọng.
A-nan nhữ đế thính:
Ngã thừa Phật oai lực.
Tuyên thuyết Kim cang
vương.
Như huyễn bất tư nghị.
Phật mẫu chơn tam muội.
Nhữ văn vi trần Phật.
Nhất thiết bí mật môn.
Dục lậu bất tiên trừ.
Súc văn thành quá ngộ.
Tương văn trì phật phật.
Hà bất tự văn văn?
Văn phi tự nhiên sanh.
Nhơn thinh hữu danh tự.
Triền văn dữ thinh thoát.
Năng thoát dục thùy
danh?
Nhất căn ký phản nguyên.
Lục căn thành giải thoát.
Kiến văn như huyễn ế.
Tam giới nhược không
hoa.
Văn phục ế căn trừ.
Trần tiêu giác viên tịnh.
Tịnh cực quang thông đạt.
Tịch chiếu hàm hư không.
Khước lai quán thế gian.
Du như mộng trung sự.
Ma-đăng-già tại mộng.
Thùy năng lưu nhữ hình?
Như thế xảo huyễn sư.
Huyễn tác chư nam nữ.
Tuy kiến chư căn động.
Yếu dĩ nhất cơ trừu.
Tức cơ quy tịch nhiên.
Chư huyễn thành vô tánh.
Lục căn diệc như thị.
Nguyên y nhất tinh minh.
Phân thành lục hoà hợp.
Nhất xứ thành hưu phục.
Lục dụng giai bất thành.
Trần cấu ứng niệm tiêu.
Thành viên minh tịnh diệu.
Dư trần thượng chư học.
Minh cực tức Như Lai.
Đại chúng cập A-nan.
Triền nhữ đảo văn cơ.
Phản văn văn tự tánh.
Tánh thành vô thượng đạo.
Viên
thông thật như thị.
Thử thị vi trần Phật.
)
Chọn lấy nhĩ-căn làm phương-tiện thích-hợp
"Đây thật là một
đường thẳng tiến
Vào Niết-bàn của vi-trần Phật;
Các đức Như-lai trong quá-khứ
Đều đã thành-tựu pháp-môn nầy;
Các vị Bồ-tát trong hiện-tại
Điều viên-minh vào pháp-môn ấy;
Những người tu-học đời vị-lai
Đều nên nương theo pháp-môn đó;
Tôi cũng do pháp ấy mà chứng,
Không phải chỉ ngài Quán-thế-âm.
Thật như lời đức Phật Thế-tôn
Đã hỏi tôi về các phương-tiện
Để cứu-giúp, trong đời mạt-pháp,
Những người cầu pháp xuất-thế-gian
Thành-tựu được tâm-tính Niết-bàn
Thì ngài Quán-âm là hơn cả.
Còn tất-cả các phương-tiện khác
Đều là nhờ uy-thần của Phật,
Tức nơi sự, rời-bỏ trần-lao,
Không phải phép tu-học thường-xuyên,
Nông hay sâu cũng đồng nghe được.
)
Nhất lộ niết-bàn môn.
Quá khứ chư Như Lai.
Tư môn dĩ thành tựu.
Hiện tại chư bồ tát.
Kim các nhập viên minh.
Vị lai tu học nhơn.
Đương y như thị pháp.
Ngã diệc tòng trung chứng.
Phi duy Quán Thế Âm.
Thành như Phật Thế Tôn.
Tuân ngã chư phương
tiện.
Dĩ cứu chư mạt kiếp.
Cầu xuất thế gian nhơn.
Thành tựu niết-bàn tâm.
Quán Thế Âm vi tối.
Tự dư chư phương tiện.
Giai thị Phật oai thần.
Tức sự xả trần lao.
Phi thị trường tu học.
Thiển thâm đồng thuyết pháp.
)
Đỉnh-lễ cầu gia-bị
"Xin đỉnh-lễ tính
Như-lai-tạng,
Vô-lậu, không còn sự nghĩ-bàn,
Nguyện gia-bị cho đời vị-lai,
Nơi pháp-môn nầy, không lầm-lẫn.
Đây là phương-tiện dễ thành-tựu,
Nên đem dạy cho ông A-nan
Cùng những kẻ trầm-luân mạt-kiếp,
Chỉ dùng nhĩ-căn mà tu-tập,
Thì viên-thông chóng hơn pháp khác;
Tâm-tính chân-thật là như thế."
(
Đảnh lễ Như Lai tạng.
Vô lậu bất tư nghị.
Nguyện gia bị vị lai.
Ư thử môn vô hoặc.
Phương tiện dị thành tựu.
Kham dĩ giáo A-nan.
Cập mạt kiếp trầm luân.
Đãn dĩ thử căn tu.
Viên thông siêu dư giả.
Chơn thật tâm như thị.
)
NGHE PHÁP ĐƯỢC CHỨNG
Lúc ấy, ông A-nan cùng cả đại-chúng, thân tâm tỏ-rõ, nhận được sự khai-thị
to-lớn, xem quả Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Phật, cũng như có người nhân có việc
phải đi xa, chưa trở về được, song đã biết rõ con đường về nhà. Trong Pháp-hội,
cả đại-chúng, thiên-long bát-bộ, hàng Nhị-thừa hữu-học và tất-cả các Bồ-tát mới
phát-tâm, số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, đều được bản-tâm xa trần-tướng,
rời cấu-nhiễm, được pháp-nhãn thanh-tịnh. Bà Tính-tỷ-khưu-ni nghe nói bài kệ
xong, thành quả A-la-hán; vô-lượng chúng-sinh đều phát-tâm
Vô-đẳng-đẳng-vô-thượng Chính-đẳng-chính-giác.
3 PHÁP VÔ-LẬU-HỌC
Ông A-nan sửa áo chỉnh-tề, ở trong đại-chúng, chấp tay đỉnh-lễ; tâm-tích
trọn-sáng, vừa mừng vừa tủi; vì muốn lợi-ích cho các chúng-sinh vị-lai, cúi đầu
bạch Phật: "Thưa đức Thế-tôn đại-bi, tôi nay đã ngộ được pháp-môn thành
Phật, tu-hành trong đó, được không nghi-hoặc. Tôi thường nghe đức Như-lai dạy
như thế nầy: Tự mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là chỗ phát-tâm của
các vị Bồ-tát; tự mình giác-ngộ viên-mãn, có thể giác-ngộ kẻ khác, đó là sự
ứng-thế của các đức Như-lai. Tôi tuy chưa được độ, song nguyện độ tất-cả
chúng-sinh trong đời mạt-pháp. Bạch Thế-tôn, các chúng-sinh đó cách Phật ngày
càng xa, những tà-sư thuyết-pháp; số như cát sông Hằng; nếu muốn họ nhiếp-tâm
vào Tam-ma-đề, thì nên khiến họ dựng-lập đạo-trường thế nào để rời các ma-sự,
được không thoái-khuất nơi tâm Bồ-đề."
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn, ở trong đại-chúng, khen-ngợi ông A-nan: "Hay
lắm, hay lắm, như chỗ ông hỏi về dựng-lập đạo-trường, cứu-giúp chúng-sinh
chìm-đắm trong đời mạt-pháp, ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói".
Ông A-nan và cả đại-chúng kính vâng lời-dạy của Phật.
Phật bảo ông A-nan: "Ông thường nghe tôi, trong
Tỳ-nại-gia, tuyên-nói ba nghĩa quyết-định của sự tu-hành, đó là thu-nhiếp cái
tâm là giới, nhân giới mà sinh định, nhân định mà phát tuệ, thế gọi là 3
pháp Vô-lậu-học."
GIỚI DÂM
"A-nan, thế nào thu-nhiếp cái tâm thì gọi là giới?
Nếu chúng-sinh lục-đạo các thế-giới, cái tâm không dâm, thì không đi theo
dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không
trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định
hiện-tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma-đạo, hạng trên thành
ma-vương, hạng giữa thành ma-dân, hạng dưới thành ma-nữ; các bọn ma kia cũng có
đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi diệt-độ rồi,
trong đời mạt-pháp, có nhiều bọn ma nầy sôi-nổi trong thế-gian, gây nhiều việc
tham-dâm, lại giả làm người thiện-tri-thức, khiến cho các chúng-sinh sa vào hầm
ái-kiến; bỏ mất con đường Bồ-đề. Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-đề, trước hết
phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy-bảo rõ-ràng thanh-tịnh,
quyết-định thứ nhất của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn. Vậy nên ông A-nan,
nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền-định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho
thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì
cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản-nhân của cơm vậy. Ông
đem thân dâm cầu diệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm,
cỗi-gốc đã thành dâm, thì phải trôi-lăn trong tam-đồ, chắc không ra khỏi, còn
đường nào tu-chứng Niết-bàn Như-lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết
giống dâm, cho đến tính-đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông-mong chứng quả
Bồ-đề của Phật. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói
đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."
GIỚI SÁT
"A-nan, lại các chúng-sinh lục-đạo trong các thế-giới, nếu cái tâm
không sát, thì không theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra
khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng sát, thì không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu
có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn lòng sát, thì chắc phải lạc
vào thần-đạo; người bậc trên thì thành đại-lực-quỷ, người bậc giữa thì thành
phi-hành-dạ-xoa và các loài quỷ-soái, người bậc dưới thì thành địa-hành la-sát,
các loài quỷ-thần kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng.
Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều quỷ-thần nầy sôi-nổi
trong thế-gian, tự nói rằng ăn thịt, được đạo Bồ-đề. A-nan, tôi khiến hàng
tỷ-khưu ăn năm thứ tịnh-nhục, thịt kia đều do thần-lực tôi hóa-sinh ra, vốn không
có mạng-căn. Xứ Bà-la-môn các ông, đất-đai phần nhiều nóng-ướt, lại thêm cát
đá, rau-cỏ không sinh được; tôi dùng sức đại-bi gia-bị, nhân sức đại-từ-bi, giả
gọi là thịt và các ông cũng nhận được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như-lai
diệt-độ, người ăn thịt chúng-sinh, lại gọi là Phật-tử! Các ông nên biết những
người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai-ngộ, giống như Tam-ma-đề, đều là loài
la-sát, quả-báo hết rồi, phải chìm-đắm trong bể khổ, không phải đệ-tử Phật.
Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được
ra khỏi ba cõi. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, thứ nữa, phải đoạn lòng
sát. Ấy gọi là lời dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ hai của các đức
Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.
Vậy nên A-nan, nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền-định, thì cũng ví-như có
người tự bịt lỗ tai, cất tiếng kêu to mà trông-mong người khác không nghe; bọn
này gọi là muốn giấu thì càng lộ. Hàng tỷ-khưu thanh-tịnh và các vị Bồ-tát đi
trong đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ; làm sao đức
Đại-bi, lại lấy máu thịt của các chúng-sinh, mà làm đồ-ăn?
Nếu các hàng tỷ-khưu không mặc những đồ tơ-lụa, là-lượt phương Đông
và không dùng những giày-dép, áo-cừu, áo-len hay các thứ sữa, phó-mát, đề-hồ,
thì những tỷ-khưu như thế, đối với thế-gian, thật là giải-thoát, trả hết nợ cũ
xong, thì không vào trong ba cõi nữa, vì cớ sao? Dùng những bộ-phận thân-thể
chúng-sinh, thì đều bị ảnh-hưởng chúng-sinh, cũng như con người ăn giống
bách-cốc trong đất, thì chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm,
đối với thân-thể hay bộ-phận thân-thể của chúng-sinh, đều không mặc, không ăn,
thì những người như thế, tôi mới gọi thật là giải-thoát. Như lời tôi nói đây,
gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."
GIỚI ĐẠO
"A-nan, lại như chúng-sinh lục-đạo trong thế-giới, tâm không thâu-đạo,
thì không theo dòng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra khỏi
trần-lao, nếu lòng thâu-đạo không trừ, thì không thể ra khỏi trần-lao được; dầu
có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn được lòng thâu-đạo, thì chắc
phải lạc vào tà-đạo, hạng trên thì thành tinh-linh, hạng giữa thì thành yêu-mị,
hạng dưới thì thành người tà-đạo bị các loài quỷ-mị nhập vào; các bọn tà-đạo
kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng. Sau khi tôi
diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều những hạng yêu-mị tà-đạo ấy sôi-nổi
trong thế-gian, chúng lén-núp gian-dối, tự xưng là thiện-tri-thức, mỗi người tự
xưng đã được đạo-pháp thượng-nhân, lừa-gạt kẻ không biết, doạ-dẫm khiến cho mất
lòng chính-tín; chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều bị hao-tổn tan-nát.
Tôi dạy hàng tỷ-khưu theo thứ lớp khất-thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ-đề.
Các hàng tỷ-khưu không tự nấu ăn, gửi cái sống thừa tạm-bợ trong ba cõi,
thị-hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại nữa. Làm sao, bọn giặc mượn
y-phục đạo Phật, buôn-bán Như-lai, gây các thứ nghiệp mà đều gọi là Phật-pháp,
lại còn chê-bai các vị tỷ-khưu đầy-đủ giới-luật xuất-gia là đạo Tiểu-thừa; do
chúng làm cho vô-lượng chúng-sinh mắc phải nghi-lầm, nên sẽ bị đọa vào ngục
vô-gián. Sau khi tôi diệt-độ rồi, nếu có tỷ-khưu phát-tâm quyết-định tu phép
Tam-ma-đề, biết ở trước hình-tượng Như-lai, chính mình thắp một cây đèn, đốt
một đốt ngón tay hay ở trên thân, đốt một mồi hương, tôi nói người ấy, túc-trái
vô-thủy, trong một thời trả hết, cáo-từ thế-gian, thoát hẳn các lậu. Người ấy,
tuy chưa hiểu rõ đạo vô-thượng-giác, nhưng đối với Phật-pháp, tâm đã
quyết-định; nếu không làm được cái nhân nhỏ-mọn xả-thân ấy, thì dầu thành đạo
vô-vi, cùng phải lại sinh làm người, trả các nợ củ, như quả-báo mã-mạch của
tôi, thật không sai khác. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, sau nữa, phải
đoạn lòng thâu-đạo. Ấy gọi là lời-dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ ba của
các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn. Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn lòng
thâu-đạo mà tu thiền-định, thì cũng như người lấy nước rót vào chén thủng, mong
cho đầy chén, dầu trải qua kiếp-số như vi-trần, rốt-cuộc không thể đầy được.
Nếu các hàng tỷ-khưu, ngoài y-bát ra, mảy-may không tích-trữ, xin ăn có dư, thì
bố-thí cho chúng-sinh đói, nơi nhóm Hội lớn, chấp tay vái chào đại-chúng, có
người đánh-mắng cũng đồng như khen-ngợi, quyết-định rời-bỏ cả thân và tâm,
thân-thịt xương-máu thành sở-hữu chung của chúng-sinh, không đem những lời-dạy
bất-liễu-nghĩa của Như-lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ-học phải
lầm-lạc, thì Phật ấn-chứng người ấy, thật được Tam-muội. Như lời tôi nói đây,
gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma
Ba-tuần."
GIỚI VỌNG
"A-nan, chúng-sinh lục-đạo trong thế-giới như thế, tuy nơi thân tâm
không còn sát, đạo, dâm, cả ba hạnh đã được viên-mãn, nếu mắc phải
đại-vọng-ngữ, thì Tam-ma-đề không được thanh-tịnh, thành giống ma ái-kiến và
mất giống Như-lai; tức như chưa được gọi rằng được, chưa chứng gọi rằng chứng,
hoặc để cầu thế-gian tôn-trọng tột-bậc, bảo người khác rằng: Nay tôi đã được
quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, đạo A-la-hán, thừa Bích-chi-Phật
hay các quả-vị Bồ-tát trong thập-địa hay trước thập-địa, trông-mong người kia
lễ-sám, tham sự cúng-dường. Những tên nhất-điên-ca ấy, tự tiêu-diệt giống Phật,
như người lấy dao chặt cây đa-la; Phật ấn-ký người ấy, mất hẳn thiện-căn, không
còn chính-tri-kiến, chìm-đắm trong ba bể khổ, không thành-tựu pháp Tam-muội.
Tôi bảo các hàng Bồ-tát và A-la-hán, sau khi tôi diệt-độ rồi, hiện ra ứng-thân,
sinh trong đời mạt-pháp kia, hiện ra nhiều hình-tướng khác nhau, đề độ những
người còn trong vòng luân-hồi, hoặc làm sa-môn, bạch-y-cư-sĩ, vua-chúa,
quan-lại, đồng-nam, đồng-nữ, như thế cho đến người dâm-nữ, người quả-phụ, người
gian-dối, trộm-cắp, người hàng-thịt, buôn-bán, để khen-ngợi Phật-thừa với những
người đồng-sự, khiến cho thân tâm của họ vào được Tam-ma-đề; nhưng rốt-ráo
không tự bảo rằng tôi thật là Bồ-tát, thật là A-la-hán, khinh-xuất nói với
những người chưa học, làm tiết-lậu mật-nhân của Phật, chỉ trừ đến lâm-chung,
hoặc chăng, thầm có những lời di-chúc; làm sao, lại còn có lừa-gạt chúng-sinh,
thành tội đại-vọng-ngữ. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, sau-rốt phải
đoạn-trừ các đại-vọng-ngữ. Ấy gọi là lời-dạy rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ
tư của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.
Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn-trừ lòng đại-vọng-ngữ, thì cũng như khắc
phân người làm thành hình cây chiên-đàn, mà muốn được hương-thơm, thật không có
lẽ nào như vậy. Tôi dạy hàng tỷ-khưu lấy trực-tâm làm đạo-trường, trong hết
thảy hành-động, nơi bốn uy-nghi, còn không có giả-dối, làm sao, lại có kẻ tự
xưng đã được đạo-pháp thượng-nhân! Ví-như người dân-cùng xưng càn là đế-vương
để tự chuốc lấy sự tru-diệt, huống nữa, là vị Pháp-vương, làm sao, lại dám
xưng-càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh-co, như thế, mà cầu đạo Bồ-đề của
Phật, thì cũng như người muốn cắn rốn, làm sao, mà thành-tựu được. Nếu như các
hàng tỷ-khưu, tâm như dây đàn thẳng, tất-cả đều chân-thật mà vào Tam-ma-đề, thì
hẳn không có các ma-sự, tôi ấn-chứng người đó, thành-tựu được vô-thượng
tri-giác của các hàng Bồ-tát. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật;
không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần."
KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM
QUYỂN VII
PHẬT KHAI-THỊ VỀ MẬT-GIÁO,
THẦM-GIÚP CHO NHỮNG NGƯỜI TU-HÀNH
"A-nan, ông hỏi cách nhiếp-trì tâm-niệm, thì tôi đã nói
rằng: Người muốn vào Tam-ma-đề, tu-học pháp-môn nhiệm-mầu, cầu đạo Bồ-tát;
trước hết cần giữ 4 thứ luật-nghi đó trong-sáng như giá, như sương, tự không
thể sinh ra được tất-cả ngành lá; ba ý-nghiệp, bốn khẩu-nghiệp ác chắn không
còn có nhân mà sinh được. A-nan, nếu giữ 4 việc như vậy không thiếu-sót, thì
tâm còn không duyên với sắc, hương, vị, xúc, tất-cả ma-sự làm sao mà phát-sinh
được. Nếu có tập-khí cũ không thể diệt-trừ, ông dạy người đó nhất-tâm tụng
thần-chú vô-thượng "Phật-đỉnh quang-minh ma-ha tát-đát-đa bát-đát-ra"
của tôi, đó là cái tâm-chú do Vô-vi-tâm-Phật của Vô-kiến-đỉnh-tướng Như-lai, từ
nơi đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.
Vả lại, ông cùng nàng Ma-đăng-già, do nhân-duyên nhiều kiếp
đời trước thành tập-khí ân-ái, không phải một đời hay là một kiếp; song, một
phen tôi tuyên-dương thần-chú, thì Nàng Ma-đăng-già thoát hẳn khỏi lòng yêu,
thành quả A-la-hán. Nàng kia, còn là dâm-nữ, không có tâm tu-hành, do sức
thần-chú giúp, cũng mau chứng quả vô-học; thế thì bọn ông, những hàng Thanh-văn
trong Hội nầy, cầu Tối-thượng-thừa, thì quyết-định sẽ thành Phật, cũng ví-như
bụi bay gặp gió thuận, có khó-khăn gì?
Nếu có người, trong đời mạt-pháp, muốn ngồi đạo-trường
tu-hành, trước hết phải giữ cấm-giới tỷ-khưu thanh-tịnh và cần phải lựa-chọn
những vị sa-môn giữ-giới thanh-tịnh bậc nhất để làm thầy mình; nếu không gặp
được tăng-chúng thật thanh-tịnh, thì giới-luật-nghi chắc không thành-tựu được.
Sau khi giới được thành-tựu rồi, người đó đắp-y mới, sạch-sẽ, đốt hương, ở
riêng một mình, tụng thần-chú, do tâm-Phật nói, một trăm tám biến; về sau,
kết-giới dựng-lập đạo-trường, cầu các đức vô-thượng Như-lai, hiện ở trong các
cõi-nước mười phương, phóng hào-quang đại-bi đến rọi nơi đỉnh-đầu mình.
A-nan, những hàng thanh-tịnh tỷ-khưu, hoặc tỷ-khưu-ni, hoặc
bạch-y đàn-việt như vậy, trong đời mạt-pháp, tâm diệt được tham-dâm, giữ giới
thanh-tịnh của Phật, ở trong đạo-trường, phát-nguyện Bồ-tát, khi ra, khi vào,
khi tắm, khi rửa, cả trong sáu thời đều hành-đạo như vậy, không ngủ, đến ba lần
bảy ngày, thì tôi tự hiện-thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an-ủi, khiến cho
khai-ngộ".
Ông A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, tôi nhớ lời từ-bi
dạy-bảo vô-thượng của đức Như-lai, tâm đã khai-ngộ, tự biết con đường tu-chứng
thành-quả vô-học, song, những người tu-hành, trong đời mạt-pháp, muốn lập
đạo-trường, cần kết-giới thế nào, cho hợp với quy-tắc thanh-tịnh của chư Phật
Thế-tôn?"
KHAI-THỊ NGHI-THỨC ĐẠO-TRƯỜNG
Phật bảo ông A-nan: "Nếu người trong đời mạt-pháp, muốn
lập đạo-trường, trước hết, phải lấy phân con đại-lực-bạch-ngưu ở núi Tuyết-sơn,
bạch-ngưu nầy, ăn cỏ-thơm ngon-tốt trong núi và chỉ uống nước trong trên núi
Tuyết-sơn, nên cái phân mịn-màng; nên lấy cái phân nó, hòa-hợp với hương
chiên-đàn để quét trên mặt đất. Nếu, không phải ở Tuyết-sơn, thì phân bạch-ngưu
hôi-nhớp, không thể trát đất được. Vậy thì, phải riêng ở nơi bình-nguyên, đào
bỏ các lớp đất trên mặt, lấy thứ đất vàng từ 5 thước trở xuống; rồi lấy 10 thứ
hương là chiên-đàn, trầm-thủy, tô-hợp, huân-lục, uất-kim, bạch-giao, thanh-mộc,
linh-lăng, cam-tùng và kê-thiệt, nghiền-rây thành bột, trộn với đất ấy thành
bùn, để trát trên mặt đất đạo-trường, mỗi bề 1 trượng 6, thành cái đàn
bát-giác. Giữa trung-tâm đàn, an-trí một hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, cây,
giữa hoa để một cái bát, trong bát đựng trước nước mù-sương tháng Tám và trong
nước ấy tùy-ý cắm các hoa lá hiện có. Rồi lấy 8 cái gương tròn, mỗi cái để một
phía, chung-quanh hoa sen và bát hoa. Bên ngoài những gương ấy, an-trí 16 hoa sen
và giữa các hoa sen để 16 lư-hương cho trang-hoàng. Trong lư-hương đốt toàn
hương trầm-thủy, không cho thấy lửa. Lấy sữa bạch-ngưu để trong 16 khí-mãnh;
lấy sữa làm bánh-nướng và các thứ đường-cát, bánh-rán, bột-sữa, tô-hộp,
mứt-gừng, mật-ong, bơ tốt, mật tốt, mỗi thứ 16 khí-mãnh, đặt ở ngoài hoa sen và
quanh vòng hoa sen; để cúng-dâng chư Phật và các vị Đại-bồ-tát.
Trong mỗi thời ăn cơm và ở giữa đêm, lấy nửa thăng mật và 3
cáp bơ, trước đàn để riêng một lư lửa nhỏ; lấy hương đâu-lâu-bà, nấu lấy nước
thơm, rửa than cho sạch; rồi đốt than đỏ hồng trong lư và rót mật bơ vào, đốt
cho hết khói để cúng-dường chư Phật, Bồ-tát.
Ở 4 phía ngoài, treo khắp phan và hoa; ở trong phòng đàn,
an-trí hình-tượng hiện có của thập phương Như-lai và các vị Bồ-tát nơi 4 vách.
Nên ở chính-giữa để hình-tượng Phật Lô-xá-na, Phật Thích-ca, Phật Di-lặc, Phật
A-xơ, Phật Di-đà và các hình-tượng đại-biến-hóa của Ngài Quán-âm, lại thêm,
hình-tượng các vị Kim-cương-tạng Bồ-tát để ở hai bên; những tượng của Đế-thích,
Phạm-vương, Ô-sô-sắt-ma, Lam-địa-ca, Quân-trà-lỵ, Tỳ-câu-chi và Tứ-thiên-vương,
Tần-na, Dạ-ca, vân vân..., treo ở hai bên cửa; lại lấy 8 cái gương treo úp trên
hư-không, mặt gương nầy đối-chiếu với 8 gương trước, đã để trong đàn-tràng, làm
cho các hình-ảnh lồng-nhau nhiều lớp.
KHAI-THỊ TU-TRÌ ĐƯỢC CHỨNG
Trong tuần 7 ngày đầu, chí-thành đỉnh-lễ danh-hiệu thập phương
Như-lai, các vị Đại-bồ-tát và A-la-hán, thường tron 6 thời tụng-chú đi quanh
đàn, chí-tâm hành-đạo, một thời thường là 108 biến. Trong tuần 7 ngày thứ 2,
một mặt chuyên-tâm phát-nguyện Bồ-tát, tâm không gián-đoạn; trong luật-nghi
đạo, ta đã có chỉ-dạy về nguyện. Trong tuần 7 ngày thứ 3, trong cả 12 thời, một
mặt trì-chú Bát-đát-ra của Phật; đến ngày thứ 7, thì thấy thập phương Như-lai
một thời xuất-hiện, trong chỗ ánh-sáng các mặt gương giao-xen và được Phật xoa
đỉnh. Rồi, liền ở nơi đạo-trường đó, tu phép Tam-ma-đề, có thể khiến cho những
người tu-học như vậy, trong đời mạt-pháp, thân tâm được sáng-suốt, trong-sạch
như ngọc lưu-ly.
A-nan, nếu trong các thầy truyền-giới cho vị tỷ-khưu ấy, hay
trong 10 vị tỷ-khưu đồng-hội, có một người giới-hạnh không thanh-tịnh, thì
những đạo-trường như thế, phần nhiều là không thành-tựu.
Từ sau 3 tuần 7 ngày, ngồi nghiêm-chỉnh an-cư, trải qua một
trăm ngày, thì những người có lợi-căn, không rời khỏi chỗ ngồi, đã được quả
Tu-đà-hoàn; dầu cho nơi thân tâm thánh-quả chưa thành, nhưng đã quyết-định tự
biết sẽ thành Phật, không sai-chạy. Ông hỏi về đạo-trường, thì cách dựng-lập
như vậy".
PHÓNG HÀO-QUANG, KHẮP THỊ-HIỆN
Ông A-nan đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ khi
xuất-gia, tôi ỷ-lại nơi lòng thương-yêu của Phật; vì cầu tuệ đa-văn, chưa chứng
quả vô-vi, nên bị tà-thuật Phạm-thiên kia bắt-buộc; tâm tuy rõ-ràng, nhưng sức
không tự-do, nhờ gặp ngài Văn-thù, khiến cho tôi được giải-thoát. Tuy tôi thầm
nhờ sức của thần-chú Phật-đỉnh Như-lai, nhưng chính mình còn chưa được nghe chú
ấy, xin nguyện đức Đại-từ tuyên-nói lại cho, thương-xót cứu-giúp các hàng
tu-hành trong Hội nầy và những người đời sau, còn trong luân-hồi, được nhờ
mật-âm của Phật, mà thân-ý được giải-thoát". Lúc bấy giờ, tất-cả đại-chúng
trong Hội thảy đều làm lễ, chờ nghe những câu chú bí-mật của Như-lai.
Lúc đó, đức Thế-tôn, từ nơi nhục-kế phóng ra trăm thứ
hào-quang báu, trong hào-quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa-thân
Như-lai ngồi trong hoa sen, trên đình phóng ra mười đạo hào-quang bách-bảo;
trong mỗi mỗi đạo hào-quang, đều hiện ra những vị Kim-cương mật-tích, số-lượng
bằng mười số cát sông Hằng, xách núi, cầm xử, khắp cõi hư-không. Đại-chúng ngửa
lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật thương-xót che-chở, một tâm nghe đức
Phóng-quang Như-lai, nơi Vô-kiến-đỉnh-tướng của Phật, tuyên-nói thần-chú :
( Nhĩ
thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang trung dõng xuất,
thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung. Ðảnh phóng thập đạo,
bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện, thập Hằng Hà sa,
Kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, Ðại chúng ngưỡng quán,
úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng
quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú :)
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
ÐỆ NHỨT
Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miệu
tam-bồ-đà-tỏa.Tát đát tha Phật đà cu-tri sắc ni sam.
Nam-mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đà cu-tri nẩm. Ta xá ra bà
ca tăng-già nẩm.
Nam-mô lô kê a-la-hán đa nẩm.
Nam-mô ta yết rị đà già di nẩm.
Nam-mô lô kê tam-miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa
na nẩm.
Nam-mô đề bà ly sắt nỏa.
Nam-mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra
ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam-mô bạt ra ha ma ni.
Nam-mô nhơn đà ra da.
Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam-mô bà già bà đế.
Na ra dả noa da. Bàn-giá ma-ha tam mộ đà ra.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na già ra.
Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị
già noa.
Nam-mô tất yết rị đa da.
Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.
Nam-mô bát đầu ma cu na da.
Nam-mô bạt xà ra cu ra da.
Nam-mô ma ni cu ra da.
Nam-mô già xà cu ra gia.
Nam-mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa
ra xà dà, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế.
Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miệu
tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế,
tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra
bà ra xà da, đa tha già đa da.
Nam-mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà
da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a
ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da.
Nam-mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa
da, a ra ha đế, tam-miệu tam-bồ-đà da, đế biều nam-mô tát yết rị đa, ế đàm bà
giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.
Nam-mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa
yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị
trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na
mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra
thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra
băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra
nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra
nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đác ra, a kiết ni ô
đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra thiện trì, ma ha điệp đa,
ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da
đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng
dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra
thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha
thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà,
bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa gia kiền giá
na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu
rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba
ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra
bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ
tỏa.
ÐỆ NHỊ
Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô
sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na.
Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung,
tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ
hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng
băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc
ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị
sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt
xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà na, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn
thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TAM
Ra xà bà dạ, chủ ra bạt
dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước
yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra
ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ,
na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa
tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha,
cưu-bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất
kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết
ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha
rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ,
thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất
đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di,
kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ
di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du
bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra
dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà
tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma-ha ca ra ma đát rị
già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà
ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra
bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ
di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xa ra bà noa hất rị đởm,
tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà
dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỷ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ
di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà
sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TỨ
Bà già phạm, tát đát đa
bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca
tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà
ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn
tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà
phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn,
tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn,
ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê
hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn,
tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ
phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà
ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ
phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa
tỳ rị tệ phấn, bạt ra xa thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha
ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam-mô ta yết rị đa dạ
phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma
ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị
duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn,
a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa
bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NGŨ
Ðột sắc tra chất đa, a
mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma
xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử
ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc
tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ
đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất
kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết
ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết
ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha,
kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế
dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để
ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô
kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô
kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ
du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri
du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam,
bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà
kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha
lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ
ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc
chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đác ra sô, mạt ra
thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam,
ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà
da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác điệc tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra
bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung
phấn, ta bà ha.
THẬP
PHƯƠNG NHƯ LAI
NHÂN TỤNG
TÂM CHÚ NÀY MÀ ĐƯỢC THÀNH PHẬT
"A-nan, những câu nhiệm-mầu, những kệ bí-mật
"Tất-đát-đa-bát-đát-ra" của hóa-thân nơi hào-quang đỉnh-Phật, sinh ra
tất-cả chư Phật thập phương. Thập phương Như-lai nhân chú-tâm nầy,
thành được Vô-thượng-chính-biến-tri-giác. Thập phương Như-lai nắm
chú-tâm nầy, uốn-dẹp các ma, chế-phục các ngoại-đạo. Thập phương Như-lai vận
chú-tâm nầy, ngồi hoa sen báu, ứng-hiện trong các cõi-nước như số vi-trần. Thập
phương Như-lai ngậm chú-tâm nầy, nơi cõi-nước như số vi-trần, xoay bánh xe Pháp
lớn. Thập phương Như-lai giữ chú-tâm nầy, có thể nơi mười phương xoa đỉnh
thụ-ký, tự mình quả-vị chưa thành, cũng có thể nơi mười phương nhờ chư Phật
thụ-ký. Thập phương Như-lai nương chú-tâm nầy, có thể nơi mười phương cứu-vớt
các khổ như địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, đui, điếc, ngọng, câm; các khổ
oán-tăng-hội, ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, ngũ-ấm-xí-thịnh; những tai-nạn lớn nhỏ
đồng-thời được giải-thoát; nạn giặc, nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa,
nước, cho đến đói-khát bần-cùng, liền được tiêu-tan. Thập phương Như-lai theo chú-tâm
nầy, có thể nơi mười phương, phụng-sự thiện-tri-thức, trong bốn uy-nghi,
cúng-dường được như-ý; trong Pháp-hội hằng-sa Như-lai, được suy-tôn là vị
Đại-pháp-vương-tử. Thập phương Như-lai dùng chú-tâm nầy, có thể nơi mười
phương, nhiếp-thụ các nhân-thân, khiến cho các hàng Tiểu-thừa nghe tạng bí-mật,
không sinh lòng kinh-sợ. Thập phương Như-lai tụng chú-tâm nầy, thành-đạo
Vô-thượng-giác, ngồi dưới cây Bồ-đề, vào Đại-niết-bàn. Thập phương Như-lai
truyền chú-tâm nầy, sau khi diệt-độ rồi, phó-chúc Pháp-sự của Phật, được
trụ-trì rốt-ráo; giới-luật nghiêm-tịnh, thảy đều trong-sạch."
"Nếu tôi nói chú "Phật-đỉnh-quang-tụ
bát-đát-ra" nầy, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó những chữ,
những câu cũng không trùng-điệp, trải qua kiếp-số như cát sông Hằng, rốt-cuộc
không thể hết được. Chú nầy cũng gọi tên là Như-lai-đỉnh."
"Hàng hữu-học các ông chưa hết luân-hồi, phát-lòng
chí-thành tu chứng quả A-la-hán, nếu không trì-chú nầy, khi ngồi đạo-trường, mà
khiến thân tâm xa-rời được các ma-sự, thì không thể được.
A-nan, nếu trong các thế-giới, có những chúng-sinh, tùy
cõi-nước mình sinh ra, nào vỏ cây hóa, nào lá cây bối, nào giấy trắng, nào
bạch-diệp, dùng để viết-chép chú nầy, đựng trong túi thơm; nếu người đó tối-tăm
chưa tụng, chưa nhớ được, mà hoặc đeo trên mình, hoặc viết trong nhà ở, thì nên
biết người ấy, trọn đời tất-cả các thứ độc không thể hại được.
A-nan, nay tôi vì ông tuyên lại chú nầy, cứu-giúp trong thế
gian được đại-vô-úy và thành-tựu trí xuất-thế-gian cho chúng-sinh.
Nếu sau khi tôi diệt-độ rồi; chúng-sinh trong đời mạt-pháp, có
người biết tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng-chú nầy, nên biết những
chúng-sinh trì-tụng như vậy, lửa không đốt được, nước không đắm được, độc lớn,
độc nhỏ không thể hại được, cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ,
ma, mị, có những chú-dữ, đều không làm gì được. Tâm người ấy được chính-thụ;
tất-cả chú-trớ, yểm-cổ, thuốc-độc, kim-độc, ngân-độc và độc-khí muôn vật như
cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều thành vị cam-lộ. Tất-cả ác-tinh với
các quỷ-thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy, cũng không thể khởi ra
ác-niệm; Tần-na, Dạ-ca và các quỷ-vương dữ khác, cùng với quyến-thuộc, đều
lĩnh-ơn sâu, thường gìn-giữ ủng-hộ.
A-nan, nên biết chú nầy, thường có 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa
câu-chi chủng-tộc Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, mỗi mỗi đều có những chúng
Kim-cương làm quyến-thuộc, ngày đêm theo hầu. Giả-sử có chúng-sinh, với tâm
tán-loạn, chứ không phải Tam-ma-đề, tâm nhớ niệm-trì chú nầy; thì các
Kim-cương-vương đó, cũng thường theo bên thiện-nam-tử kia, huống nữa, là những
người có tâm Bồ-đề quyết-định; đối với những người nầy, các vị
Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát đó, dùng tịnh-tâm thầm xúc-tiến, phát-huy
thần-thức; người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được 84.000 hằng-ha-sa kiếp,
rõ-biết cùng khắp, được không nghi-hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân
cuối-cùng, đời đời người ấy không sinh vào các loài dược-xoa, la-sát,
phú-đan-na, ca-tra-phú-đan-na, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-già, vân vân..., cùng các
loài ngạ-quỷ, có hình, không hình, có tưởng, không tưởng và những chỗ dữ như
thế. Thiện-nam-tử đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc
giữ, hoặc cúng-dường nhiều cách chú nầy, thì kiếp kiếp không sinh vào những nơi
bần-cùng hạ-tiện, không thể ưa-thích.
Các chúng-sinh đó, dù cho chính mình không làm việc phúc, thập
phương Như-lai có các công-đức đều cho họ hết, do đó, họ được trong những kiếp
hằng-sa vô-số, không thể nói, không thể nói hết, thường cùng chư Phật đồng sinh
một chỗ; vô-lượng công-đức nhóm-lại như trái ác-xoa, đồng một chỗ huân-tu, hằng
không phân-tán. Vậy nên, có thể khiến người phá giới, mà giới-căn cũng được
thanh-tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh-tiến,
khiến cho tinh-tiến; người không trí-tuệ, khiến được trí-tuệ; người không
thanh-tịnh, mau được thanh-tịnh; người không giữ trai-giới, tự thành có
trai-giới. A-nan, thiện-nam-tử ấy, khi trì-chú nầy, giả-sử có phạm cấm-giới khi
chưa thụ-trì, thì sau khi trì-chú, các tội phá giới, không luận nặng nhẹ, một
thời, đều tiêu-diệt, dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các thứ không sạch,
tất-cả chư Phật, Bồ-tát, Kim-cương, Thiên-tiên, Quỷ-thần không cho là có lỗi;
dù mặc y-phục rách-nát không sạch, thì một cái đi, một cái đứng, thảy đồng như
thanh-tịnh; dù không lập đàn, không vào đạo-trường, cũng không hành-đạo mà tụng-trì
chú nầy, thì công-đức cũng như vào đàn, hành-đạo, không có khác vậy; dù gây
những tội nặng ngũ-nghịch, vô-gián và phạm những tội tứ-khí, bát-khí của
tỷ-khưu và tỷ-khưu-ni, thì khi tụng-chú nầy rồi, cũng như gió mạnh thổi-tan
đống cát, những nghiệp nặng như vậy, đều diệt-trừ hết, không còn chút
mảy-may.
TỤNG
TÂM-CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM
KHÔNG BAO
LÂU CHỨNG ĐƯỢC VÔ-SANH PHÁP-NHẪN
MẶC Ý LÀM
VÔ BIÊN PHẬT SỰ
A-nan, nếu có chúng-sinh, từ vô-lượng vô-số kiếp đến nay, có
tất-cả những tội-chướng nhẹ, nặng mà trong các đời trước, chưa kịp sám-hối, nếu
biết đọc, tụng, viết, chép chú nầy, giữ đeo trên thân mình hay để nơi chỗ ở,
như trang, trạch, viên, quán, thì những nghiệp chứa-nhóm từ trước như vậy, đều
tiêu-tan như nước sôi tiêu tuyết, chẳng bao lâu, đều ngộ được vô-sinh-nhẫn.
"Lại nữa, A-nan, nếu có người đàn-bà chưa sinh con trai,
con gái, mong-cầu có thai, mà biết chí-tâm nhớ niệm-chú, hoặc ở trên mình đeo
chú Tất-đát-đa-bát-đát-ra nầy, thì liền sinh những con trai, con gái có
phúc-đức trí-tuệ; người cầu sống lâu, thì được sống lâu, người cầu quả-báo mau
được viên-mãn, thì mau được viên-mãn, cho đến về thân-mệnh, sắc-lực, thì cũng
được viên-mãn như vậy; sau khi mệnh-chung, tùy nguyện được vãng-sinh trong thập
phương quốc-độ, chắc-chắn không sinh nơi biên-địa hạ-tiện, huống nữa là các
tạp-hình.
"A-nan, nếu các cõi-nước, các châu, các huyện, các
làng-xóm bị nạn đói-kém, dịch-lệ, hoặc ở những nơi có đao-binh, tặc-nạn, đánh
nhau, cãi nhau và tất-cả những nơi có ách-nạn khác, viết thần-chú nầy, để trên
bốn cửa thành, cùng các tháp hay trên các thoát-xà và khiến chúng-sinh hiện có
trong cõi-nước, kính-rước chú nầy, lễ-bái cung-kính nhất-tâm cúng-dường, khiến
trong nhân-dân, mỗi mỗi người đeo chú trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất-cả
tai-ách thảy đều tiêu-diệt. A-nan, chúng-sinh trong cõi-nước, chỗ nào, chỗ nào
có được chú nầy, thì thiên-long vui-mừng, mưa-gió thuận-thời, ngũ-cốc được mùa,
dân-chúng an-vui; lại có thể trấn được tất-cả ác-tinh, nó tùy nơi, biến ra
những điều quái-dị; tai-chướng không khởi lên, người không hoạnh-tử, chết-yểu,
gông-cùm, xiềng-xích không dính vào mình, ngày đêm ngủ yên, thường không
ác-mộng. A-nan, cõi Sa-bà nầy có 84.000 ác-tinh tai-biến, 28 đại-ác-tinh làm
thượng-thủ, lại có 8 đại-ác-tinh làm chủ, xuất-hiện trên đời với nhiều
hình-trạng, có thể sinh ra các tai-nạn dị-kỳ cho chúng-sinh; chỗ nào có chú
này, thì tất-cả đều tiêu-diệt, lấy 12 do-tuần làm vòng kết-giới, các tai-biến
hung-dữ, hẳn không thể vào được.
"Vậy nên Như-lai tuyên-dạy chú nầy, bảo-hộ cho những
người tu-hành sơ-học, trong đời vị-lai, vào Tam-ma-đề, thân tâm thư-thái, được
đại-an-ẩn, không còn tất-cả các ma, quỷ-thần, và những oan-khiên đời trước,
nghiệp cũ, nợ xưa, từ vô-thủy tới nay, đến khuấy-hại nhau. Ông với những người
hữu-học trong chúng và những kẻ tu-hành đời vị-lai, y như lời-dạy của tôi mà
lập đàn-trường, đúng theo pháp mà trì-giới, gặp được tăng-chúng thanh-tịnh
chủ-trì việc thụ-giới, đối với chú-tâm nầy, không sinh lòng nghi-hối; những
thiện-nam-tử như thế, chính nơi cái thân cha mẹ sinh ra, mà không được
tâm-thông, thì thập phương Như-lai bèn là vọng-ngữ".
CHƯ VỊ
THIỆN-THẦN KHÔNG NHẬP NIẾT-BÀN
PHÁT-NGUYỆN
BẢO-HỘ NGƯỜI TRÌ CHÚ MAU THÀNH ĐẠO BỒ-ĐỀ
Phật dạy lời ấy rồi, vô-lượng trăm ngàn Kim-cương trong Hội,
một thời đứng trước Phật, chấp tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Như lời
Phật dạy, chúng tôi phải thành tâm bảo-hộ những người tu-đạo Bồ-đề như
vậy".
Khi bấy giờ, Phạm-vương và Thiên-đế-thích, Tứ-thiên đại-vương
cũng ở trước Phật, đồng-thời đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Xét có người lành
tu-học như vậy, chúng tôi phải hết lòng chí-thành bảo-hộ, khiến cho trong một
đời, tu-hành được như nguyện".
Lại có, vô-lượng Đại-tướng-dược-xoa, các vua La-sát, vua
Phú-đan-na, vua Cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xá-già, các Đại-quỷ-vương như Tần-na,
Dạ-ca, và các Quỷ-xoái, cũng ở trước Phật, chất tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng:
"Chúng tôi cũng thệ-nguyện hộ-trì cho người đó, khiến cho tâm Bồ-đề mau
được viên-mãn".
Lại có, không lường Nhật, Nguyệt thiên-tử, Phong-sư, Vũ-sư,
Vân-sư, Lôi-sư cùng với Điện-bá và các Niên-tuế-tuần-quan, chư tinh và
quyến-thuộc, vân vân..., cùng ở trong Hội, đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng:
"Chúng tôi bảo-hộ người tu-hành ấy, lập ra đạo-trường, được không e-sợ".
Lại có, vô-lượng Sơn-thần, Hải-thần, tất-cả tinh-kỳ, đất-đai
muôn vật, thủy, lục, không, hành, với Phong-thần-vương và Chư-thiên
Vô-sắc-giới, ở trước Như-lai, đồng-thời cúi đầu bạch Phật rằng: "Chúng tôi
cũng bảo-hộ người tu-hành ấy, được thành Bồ-đề, hẳn không ma-sự".
Khi bấy giờ, 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa Câu-chi
Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, ở trong đại Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thế-tôn, như bọn chúng tôi,
công-nghiệp tu-hành, đã thành đạo Bồ-đề lâu rồi, mà không nhận-lấy Niết-bàn,
thường theo chú nầy, cứu-giúp những người chân-chính tu-hành pháp Tam-ma-đề
trong đời mạt-pháp. Bạch Thế-tôn, những người tu-tâm vào chính định như thế, dù
ở đạo-trường, hay là những lúc kinh-hành, cho đến khi tán-tâm đi chơi trong
làng-xóm, đồ-chúng chúng tôi thường phải đi theo thị-vệ người ấy, dù cho
Ma-vương, Đại-tự-tại-thiên muốn được phương-tiện khuấy-phá, cũng không thể
được; các quỷ-thần nhỏ, phải cách xa người lành ấy, ngoài 10 do-tuần, trừ khi,
họ phát-tâm thích người tu-thiền. Bạch Thế-tôn, những ác-ma như thế, hay
quyến-thuộc của ma, muốn đến xâm-lấn khuấy-phá người lành ấy, chúng tôi dùng
bảo-xứ đập-nát cái đầu như vi-trần, thường khiến cho người ấy tu-hành được như
nguyện."
KHAI-THỊ NHỮNG THỨ-BẬC TU-CHỨNG TRƯỚC SAU
Ông A-nan, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đỉnh-lễ nơi chân Phật mà
bạch Phật rằng: "Chúng tôi ngu-độn, ưa tuệ đa-văn, đối với các tâm
hữu-lậu, chưa cầu thoát-ly, nhờ Phật từ-bi dạy-bảo được lối huân-tu chân-chính,
thân tâm khoan-khoái, được lợi-ích lớn. Bạch Thế-tôn, những người tu-chứng pháp
Tam-ma-đề của Phật như thế, chưa đến Niết-bàn, thì thế nào gọi là Can-tuệ-địa, trong
44 tâm, đến thứ-bậc nào, mới được danh-mục tu-hành, đến phương-sở nào, mới gọi
là nhập-địa, thế nào, gọi là Đảng-giác Bồ-tát?" Nói lời ấy rồi,
năm vóc gieo xuống đất, trong đại-chúng đều nhất-tâm, chăm-chỉ mong-đợi từ-âm
của Phật.
Khi bấy giờ, đức Thế-tôn khen ông A-nan rằng: "Hay thay!
Hay thay! Các ông lại biết, vì cả đại-chúng và hết thảy chúng-sinh tu
Tam-ma-đề, cầu pháp Đại-thừa trong đời mạt-pháp, xin tôi chỉ trước đường
tu-hành vô-thượng chân-chính từ phàm-phu đến Đại-niết-bàn; nay ông hãy nghe cho
chín, tôi sẽ vì ông mà nói".
Ông A-nan và đại-chúng chấp tay sạch lòng, yên-lặng thụ-giáo.
HAI CÁI NHÂN ĐIÊN-ĐẢO
Phật dạy: "A-nan, nên biết diệu-tính là viên-minh, rời
các danh-tướng, bản-lai không có thế-giới chúng-sinh. Nhân cái vọng mà có sinh,
nhân cái sinh mà có diệt, sinh-diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, ấy gọi
là hai hiệu chuyển-y vô-thượng Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Như-lai.
A-nan, nay ông muốn tu pháp Chân-tam-ma-đề, đến thẳng
Đại-niết-bàn của Như-lai, trước hết, phải biết hai cái nhân điên-đảo của
thế-giới và chúng-sinh nầy; điên-đảo không sinh, đó là Chân-tam-ma-đề của
Như-lai.
A-nan, thế nào gọi là điên-đảo về chúng-sinh? Do cái tâm
bản-tính là minh và tính-minh ấy viên-mãn cùng khắp, nên nhân tính-minh phát ra
hình-như có tính; mà vọng-kiến nhận là có tính sinh ra, từ chỗ rốt-ráo là
không, lại thành rốt-ráo là có. Có cái sở-hữu như thế, là do phi-nhân làm nhân
và những tướng năng-trụ, sở-trụ rốt-ráo không có cỗi-gốc. Rồi gốc nơi cái
vô-trụ đó, mà kiến-lập ra thế-giới và các chúng-sinh.
Vì mê, không nhận được tính viên-minh sẵn có, nên sinh ra
hư-vọng, tính hư-vọng không có tự-thể, không phải thật có chỗ nương-đứng. Hầu
muốn trở lại chân-tính, thì cái muốn chân đó, đã không phải là tính chân-như
chân-thật. Cầu trở lại không đúng chân-lý, thì hiện-thành ra những phi-tướng:
không phải sinh gọi rằng sinh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng
tâm, không phải pháp gọi rằng pháp.
Xoay-vần phát-sinh và sinh-lực phát-huy, huân-tập thành ra
nghiệp-báo; đồng-nghiệp thì cảm với nhau, nhân đó, lại cảm ra các nghiệp diệt
nhau, sinh nhau, do đó, mới có điên-đảo về chúng-sinh.
A-nan, thế nào gọi là điên-đảo về thế-giới? Do có cái sở-hữu
đó, nên từng phần, từng đoạn giả-dối sinh ra, vì thế, mà không-gian thành-lập;
do phi-nhân làm nhân, không có năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi mãi, không có
năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi mãi, không an-trụ, vì thế, mà thời-gian
thành-lập. Ba đời bốn phương, hòa-hợp can-thiệp cùng nhau, chúng-sinh biến-hóa
thành 12 loài. Vậy nên trong thế-giới, nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc,
nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp, sáu
vọng-tưởng càn-loạn thành ra nghiệp-tính, do đó, 12 cách đối-hiện xoay-vần mãi
mãi. Vậy nên trong thế-gian, những thanh, hương, vị, xúc biến-đổi cùng-tột, đến
12 lần xoay trở lại.
MƯỜI HAI
CHỦNG-LOẠI CHÚNG-SINH
Dựa trên những tướng điên-đảo, xoay-vần đó, nên trong thế-giới
có những loài noãn-sinh, thai-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh, hữu-sắc, vô-sắc,
hữu-tưởng, vô-tưởng, hoặc phi-hữu-sắc, hoặc phi-vô-sắc, hoặc phi-hữu-tưởng,
hoặc phi-vô-tưởng.
A-nan, nhân trong thế-giới có hư-vọng luân-hồi, điên-đảo về
động, nên hòa-hợp với khí, thành ra 84.000 loạn-tưởng bay-lặn, vì vậy, nên có
mầm-trứng trôi-lăn trong cõi-nước; cá, chim, rùa, rắn, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tạp-nhiễm luân-hồi, điên-đảo về dục,
nên hòa-hợp với tư, thành ra 84.000 loạn-tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có
bọc-thai trôi-lăn trong cõi-nước; người, súc, rồng, tiên, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có chấp-trước luân hồi, điên-đảo về thú,
nên hòa-hợp với noãn, thành ra 84.000 loạn-tưởng nghiêng-ngửa vì vậy, nên có
tế-thi thấp-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; nhung-nhúc, quậy-động, các loài
đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có biến-dịch luân-hồi, điên-đảo về giả,
nên hòa-hợp với xúc, thành ra 84.000 loạn-tưởng mới cũ; vì vậy, nên có yết-nam
hóa-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; chuyển-thoái, phi-hành, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có lưu-ngại luân-hồi, điên-đảo về chướng,
nên hòa-hợp với trước, thành ra 84.000 loạn-tưởng tinh-diệu; vì vậy, nên có
yết-nam sắc-tướng trôi-lăn trong cõi-nước; hưu-cửu, tinh-minh, các loài
đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tiêu-tán luân-hồi, điên-đảo về hoặc,
nên hòa-hợp với ám, thành ra 84.000 loạn-tưởng thầm-ẩn, vì vậy, nên có yết-nam
vô-sắc trôi-lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có võng-tượng luân-hồi, điên-đảo về ảnh,
nên hòa-hợp với ức, thành ra 84.000 loạn-tưởng tiềm-kết; vì vậy, nên có yết-nam
hữu-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; thần-quỷ tinh-linh, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có ngu-độn luân-hồi, điên-đảo về si, nên
hòa-hợp với ngoan, thành ra 84.000 loạn-tưởng khô-cảo; vì vậy, nên có yết-nam
vô-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; tinh-thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các
loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tương-đãi luân-hồi, điên-đảo về ngụy,
nên hòa-hợp với nhiễm, thành ra 84.000 loạn-tưởng nhân-y; vì vậy, nên có
yết-nam, không phải có sắc mà có sắc, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống
thủy-mẫu, dùng tôm làm mắt, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có tương-đẫn luân-hồi, điên-đảo về tính,
nên hòa-hợp với chú, thành ra 84.000 loạn-tưởng hô-triệu; vì vậy, nên có
yết-nam, không phải vô-sắc mà vô-sắc, trôi-lăn trong cõi-nước, chú-trớ,
yếm-sinh, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có hợp-vọng luân-hồi, điên-đảo về võng,
nên hòa-hợp với dị, thành ra 84.000 loạn-tưởng hồi-hỗ; vì vậy, nên có yết-nam,
không phải có tưởng mà có tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống tò-vò,
mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy-nhẩy.
Nhân trong thế-giới có oán-hại luân-hồi, điên-đảo về sát, nên
hòa-hợp với quái, thành ra 84.000 tư-tưởng ăn thịt cha-mẹ; vì vậy, nên có
yết-nam, không phải vô-tưởng mà vô-tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; như con
thổ-kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá-kính; ấp quả cây-độc làm con, con
lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy-nhẩy.
Ấy gọi là mười hai chủng-loại chúng-sinh.
KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM
QUYỂN VIII
BA TIỆM-THỨ
"A-nan, như thế, chúng-sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ hết 12 thứ
điên-đảo. Cũng như dụi con mắt, thì hoa-đốm đủ thứ phát-sinh ra, chân-tâm
diệu-viên trong-sạch sáng-suốt mà điên-đảo, thì đầy-đủ những tư-tưởng càn-loạn
giả-dối như vậy. Nay, ông tu-chứng Tam-ma-đề của Phật, thì đối với những
tư-tưởng càn-loạn, làm nguyên-nhân cỗi-gốc của các điên-đảo, nên lập ra ba
tiệm-thứ mới trừ-diệt được, cũng như, trong khí-mãnh trong-sạch, trừ-bỏ
mật-độc, dùng nước nóng và các thứ chất tro, chất thơm rửa-sạch khí-mãnh rồi,
về sau, mới đựng nước cam-lộ.
"Thế nào gọi là ba tiệm-thứ? Một là tu-tập, trừ các trợ-nhân; hai là
chân-tu, nạo-sạch chính-tính; ba là tăng-tiến, trái lại hiện-nghiệp.
Thế nào là trợ-nhân? A-nan, 12 loài chúng-sinh đó trong thế-giới, không thể
tự-toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà an-trụ, nghĩa là, nương theo đoạn-thực,
xúc-thực, tư-thực và thức-thực; vậy nên Phật bảo tất-cả chúng-sinh, đều nương
với cái ăn mà an-trụ. A-nan, tất-cả chúng-sinh, ăn thức lành thì sống, ăn thức
độc thì chết; vậy, các chúng-sinh, cầu Tam-ma-đề, nên dứt-bỏ năm thứ rau-cay
trong thế-gian. Năm thứ rau-cay nầy, ăn chín, thì phát lòng-dâm, ăn sống, thì
thêm lòng-giận. Những người ăn rau-cay đó, trên thế-giới, dù biết giảng nói 12
bộ kinh, thiên-tiên 10 phương, hiềm vì nó hôi-nhớp, đều tránh xa cả; các loài
ngạ-quỷ, vân vân... nhân trong lúc người kia ăn rau-cay, liếm môi-mép của người
đó; người ấy thường ở với quỷ một chổ, phúc-đức ngày càng tiêu, hằng-lâu không
được lợi-ích. Người ăn rau-cay đó, tu phép Tam-ma-đề, Bồ-tát, Thiên-tiên,
Thiện-thần thập phương không đến giữ-gìn ủng-hộ; Đại-lực Ma-vương được
phương-tiện đó, hiện ra thân Phật, đến thuyết-pháp cho người kia, chê-phá
cấm-giới, tán-thán dâm-dục, nóng-giận, si-mê; đến khi mệnh-chung, tự mình người
ấy làm quyến-thuộc của Ma-vương; khi hưởng-thụ phúc ma hết rồi, thì đọa vào
ngục Vô-gián. A-nan, người tu đạo Bồ-đề, phải đoạn-hẳn năm thứ rau-cay; ấy gọi
là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ nhất.
Thế nào là chính-tính? A-nan, chúng-sinh như vậy vào Tam-ma-đề, cốt-yếu
trước hết, phải nghiêm-chỉnh giữ giới thanh-tịnh, đoạn-hẳn lòng dâm, không dùng
rượu thịt, chỉ ăn đồ-ăn trong-sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan, người
tu-hành đó, nếu không đoạn dâm-dục và sát-sinh, mà ra khỏi được ba cõi, thì
thật không có lẽ như vậy. Nên xem sự dâm-dục như là rắn-độc, như thấy giặc-thù.
Trước hết, phải giữ tứ-khí, bát-khí của giới-luật Thanh-văn, nắm-giữ cái thân
không lay-động; về sau, hành-trì luật-nghi thanh-tịnh Bồ-tát, nắm-giữ cái tâm
không móng lên. Cấm-giới đã thành-tựu, thì ở trong thế-gian, hẳn không còn
những nghiệp sinh nhau, giết nhau; đã không làm việc trộm-cướp, thì không còn
mắc nợ nhau và cũng khỏi phải trả các nợ kiếp trước trong thế-gian. Con
người thanh-tịnh ấy, tu phép Tam-ma-đề, chính nơi nhục-thân cha mẹ sinh ra,
không cần thiên-nhãn, tự-nhiên thấy được thập phương thế-giới, thấy Phật nghe
Pháp, chính mình vâng-lĩnh thánh-chỉ của Phật, được phép đại-thần-thông, đi
khắp thập phương thế-giới; túc-mạng được thanh-tịnh, không còn những điều
khó-khăn nguy-hiểm; ấy gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ hai.
Thế nào là hiện-nghiệp? A-nan, người giữ-gìn cấm-giới thanh-tịnh như vậy,
tâm không tham-dâm, không hay giong-ruổi theo lục-trần ở ngoài; nhân không
giong-ruổi, tự xoay lại về tính bản-nguyên; trần đã không duyên, thì căn không
ngẫu-hợp với đâu nữa; trở-ngược dòng về chỗ toàn-nhất, sáu cái dụng không
hiện-hành, cõi-nước mười phương sáng-suốt thanh-tịnh, ví-như ngọc lưu-ly, có
mặt trăng sáng treo ở trong ấy. Thân tâm khoan-khoái, tính diệu-viên bình-đẳng,
được đại-an-ẩn, tất-cả mật-viên tịnh-diệu các đức Như-lai đều hiện trong đó;
người ấy liền được Vô-sinh-pháp-nhẫn. Từ đó, lần-lượt tu-tập, tùy cái hạnh phát
ra mà an-tập các thánh-vị, đó gọi là tiệm-thứ tu-hành tăng-tiến thứ ba.
AN-LẬP CÁC THÁNH-VỊ
Càn-huệ-địa
"A-nan, thiện-nam tử ấy, lòng dục-ái khô-cạn, căn và cảnh không
ngẫu-hợp, thân-tàn hiện-tiền, không còn tiếp-tục sinh nữa, nắm cái tâm
rỗng-sáng, thuần là trí-tuệ; tính trí-tuệ sáng-suốt cùng khắp, soi-thấu
thập-phương thế-giới; chỉ có cái tuệ khô-khan ấy, nên gọi là Càn-tuệ-địa,
tập-khí ngũ-dục mới khô-cạn, chưa tiếp-giáp với dòng nước Pháp của các đức
Như-lai.
Thập-tín
Tức lấy cái tâm ấy, chính giữa chính giữa lần vào, tính viên-diệu mở-mang,
từ chỗ chân-diệu-viên lại phát ra chân-diệu. Tính diệu-tín thường-trụ, tất-cả
vọng-tưởng diệt hết không còn, trung-đạo được thuần-chân, gọi là Tín-tâm-trụ.
Chân-tín tỏ-rõ, tất-cả đều viên-thông, ba thứ ấm, giới, nhập không thể làm
ngăn-ngại; như thế, cho đến trong vô-số kiếp quá-khứ, vị-lai, tất-cả tập-khí
xả-thân, thụ-thân đều hiện ra trước mặt, thiện-nam-tử ấy đều có thể nhớ-nghĩ
được, không quên mất gì; gọi là Niệm-tâm-trụ.
Tính diệu-viên thuần-chân, chân-tinh phát-hóa ra, các tập-khí vô-thủy đều
thông vào một tính tinh-minh, chỉ dùng tinh-minh ấy, tiến đến chỗ chân-tịnh;
gọi là Tinh-tiến-tâm.
Tâm-tinh hiện-tiền, thuần-dùng trí-tuệ; gọi là Tuệ-tâm-trụ.
Nắm-giữ trí-tuệ sáng-suốt, lặng-đứng cùng khắp, tính tịch-diệu thường
đứng-lại; gọi là Định-tâm-trụ.
Định-quang phát-minh, đi sâu vào tính sáng-suốt, chỉ có tới, chứ không lui;
gọi là Bất-thối-tâm.
Tâm an-nhiên đi tới, giữ-gìn không mất, giao-tiếp với khí-phần thập-phương
Như-lai; gọi là Hộ-pháp-tâm.
Giữ-gìn tính giác-minh, có thể dùng diệu-lực xoay từ-quang của Phật về nơi
mình và hướng về Phật mà an-trụ, cũng như hai gương sáng đối nhau, trong đó các
bóng nhiệm-mầu lớp-lớp lồng nhau; gọi là Hồi-hướng-tâm.
Tự-tâm thầm xoay Phật-quang trở về, được vô-thượng diệu-tịnh thường-trụ của
Phật, an-trụ nơi vô-vi, được không bỏ mất; gọi là Giới-tâm-trụ.
Tự-tại an-trụ nơi giới, có thể đi khắp mười phương, tùy nguyện mà đi; gọi
là Nguyện-tâm-trụ.
Thập-trụ
A-nan, thiện-nam-tử đó, dùng phương-tiện chân-chính phát được mười cái tâm
ấy, tâm-tinh đã phát-huy, mười cái dụng ấy xen-lẫn với nhau, viên-thành một
tâm; gọi là Phát-tâm-trụ.
Trong tâm phát ra sáng-suốt, như ngọc lưu-ly trong-sạch, ở trong hiện ra
vàng-ròng; dùng cái diệu-tâm trước kia, sửa-sang thành chỗ nương-đứng; gọi là
Trị-địa-trụ.
Tâm-địa biết khắp, đều được rõ-ràng, đi cùng mười phương, được không
ngăn-ngại; gọi là Tu-hành-trụ.
Hạnh đồng với Phật, nhận khí-phần của Phật như thân trung-ấm tự cầu cha mẹ,
âm-tín thầm-thông vào giống Như-lai; gọi là Sinh-quý-trụ.
Đã vào đạo-thai, chính mình nhờ được sự nuối-nấng của tính-giác, như cái
thai đã thành, tướng người không thiếu; gọi là Phương-tiện-cụ-túc-trụ.
Hình-dáng như Phật, tâm-tướng cũng vậy; gọi là Chính-tâm-trụ.
Thân tâm hợp-thành, ngày càng tăng-trưởng; gọi là Bất-thối-trụ.
Linh-tướng mười thân, một thời đầy-đủ; gọi là Đồng-chân-trụ.
Hình đã thành, ra khỏi thai, chính mình làm Phật-tử; gọi là
Pháp-vương-tử-trụ.
Nghi-biểu đã thành người lớn, như khi một quốc-vương, phân-công ủy-nhiệm
cho thái-tử các việc nước, thì quốc-vương kia, lúc thái-tử trưởng-thành, bày ra
lễ quán-đỉnh; gọi là Quán-đỉnh-trụ.
Thập-hạnh
A-nan, thiện-nam-tử đã thành Phật-tử rồi, đầy-đủ diệu-đức vô-lượng của
Như-lai và tùy-thuận mười phương; gọi là Hoan-hỉ-hạnh.
Khéo biết làm lợi-ích cho tất-cả chúng-sinh; gọi là Nhiêu-ích-hạnh.
Tự-giác và giác-tha, được không chống trái; gọi là Vô-sân-hận-hạnh.
Theo các chủng-loại mà hiện ra sắc-thân cùng-tột vị-lai, ba đời đều
bình-đẳng, mười phương được thông-suốt; gọi là Vô-hận-hạnh.
Tất-cả đều hợp về đồng, nơi các thứ pháp-môn, được không sai-lầm; gọi là
Ly-si-loạn-hạnh.
Rồi ở trong đồng, hiện ra các cái khác, nơi mỗi mỗi tướng khác, mỗi mỗi đều
thấy là đồng; gọi là Thiện-hiện-hạnh.
Như vậy, cho đến mười phương hư-không, đầy khắp vi-trần và trong mỗi mỗi
vi-trẩn hiện ra thập phương thế-giới; hiện vi-trần, hiện thế-giới, không
ngăn-ngại nhau; gọi là Vô-trước-hạnh.
Các thứ hiện-tiền, đều là Đệ-nhất-ba-la-mật-đa; gọi là Tôn-trọng-hạnh.
Viên-dung như vậy, có thể thành-tựu quy-tắc của chư Phật mười phương; gọi
là Thiện-pháp-hạnh.
Mỗi mỗi đều là Nhất-chân-vô-vi Thanh-tịnh-vô-lậu, vì tính bản-nhiên là như
vậy; gọi là Chân-thật-hạnh.
Thập-hồi-hướng
A-nan, thiện-nam-tử đó đầy-đủ thần-thông, thành-tựu Phật-sự rồi, toàn là
một tinh-chân thuần-khiết, xa các lỗi-lầm, chính khi hóa-độ chúng-sinh mà diệt
tướng năng-độ, sở-độ, xoay tâm vô-vi hướng về đường Niết-bàn; gọi là Cứu-hộ
nhất-thiết chúng-sinh, Ly-chúng-sinh-tướng hồi-hướng.
Diệt-hoại tất-cả cái gì có thể diệt-hoại, viễn-ly các sự ly; gọi là
Bất-hoại hồi-hướng.
Tính bản-giác đứng-lặng, giác-ngộ bằng Phật; gọi là Đẳng-nhất-thiết-Phật
hồi-hướng.
Tinh-chân phát ra sáng-suốt, tâm-địa như Phật-địa, gọi là Chí-nhất-thiết-xứ
hồi-hướng.
Thế-giới và Như-lai, dung-hợp vào nhau, được không ngăn-ngại; gọi là
Vô-tận-công-đức-tạng hồi-hướng.
Nơi đồng với Phật-địa, trong ấy phát-sinh ra các nhân thanh-tịnh, nương
nhân ấy mà phát-huy, đi đến đạo Niết-bàn; gọi là Tùy-thuận-bình-đẳng-thiện-căn
hồi-hướng.
Chân-căn đã thành-tựu, thập phương chúng-sinh đều là bản-tính của mình,
bản-tính viên-mãn thành-tựu, không bỏ mất chúng-sinh; gọi là
Tùy-thuận-đẳng-quán-nhất-thiết chúng-sinh hồi-hướng.
Tức tất-cả pháp, ly tất-cả tướng, cả tức và ly, hai cái đều không dính; gọi
là Chân-như-tướng hồi-hướng.
Thật được như-như, mười phương không ngăn-ngại; gọi là Vô-phược-giải-thoát
hồi-hướng.
Tính-đức viên-mãn thành-tựu, lượng của pháp-giới diệt; gọi là
Pháp-giới-vô-lượng hồi-hướng.
Tứ-gia-hạnh
A-nan, thiện-nam-tử đó, tu hết 41 tâm thanh-tịnh ấy rồi, thì lại thành-tựu
bốn thứ gia-hạnh diệu-viên:
Tức lấy Phật-giác, dùng làm tâm mình, như ra nhưng chưa ra, ví-như dùi cây
để cho ra lửa mà đốt cái cây; gọi là Noãn-địa.
Lại lấy tâm mình, thành chỗ đứng của Phật, hình-như nương, nhưng không phải
nương, ví-như người lên chóp núi cao, thân đã vào hư-không, nhưng ở dưới còn
chút ngăn-ngại; gọi là Đỉnh-địa.
Tâm và Phật là đồng, khéo được trung-đạo, ví-như người biết nhịn, không
phải ôm vào, nhưng cũng không phải phát ra; gọi là Nhẫn-địa.
Số-lượng đều tiêu-diệt, mê, giác và trung-đạo, cả hai đều không có gì; gọi
là Thế-đệ-nhất-địa.
Thập-địa
A-nan, thiện-nam-tử đó thông-suốt đúng-đắn đạo Đại-bồ-đề, chỗ giác-ngộ
thông với Như-lai, cùng-tột cảnh-giới của Phật; gọi là Hoan-hỉ-địa.
Tính khác nhập với đồng, tính đồng cũng diệt; gọi là Ly-cấu-địa.
Thanh-tịnh cùng-tột, sáng-suốt sinh ra; gọi là Phát-quang-địa.
Sáng-suốt tột, giác viên-mãn; gọi là Diệm-tuệ-địa.
Tất-cả cái đồng, cái khác, không thể đến được; gọi là Nan-thắng-địa.
Bản-tính thanh-tịnh vô-vi, chân-như tỏ-lộ; gọi là Hiện-tiền-địa.
Tột bờ-bến chân-như; gọi là Viễn-hành-địa.
Một tâm chân-như; gọi là Bất-động-địa.
Phát cái dụng chân-như; gọi là Thiện-tuệ-địa.
A-nan, các Bồ-tát đó, từ đây về trước, công-hạnh tu-tập đã xong, công-đức
được viên-mãn, cũng gọi địa nầy là Tu-tập-vị; bóng từ, mây diệu, trùm bể
Niết-bàn; gọi là Pháp-vân-địa.
Kết-thúc bằng hai quả-vị Đẳng-giác và Diệu-giác
Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào
chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.
A-nan, từ tâm Càn-tuệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được
Sơ-càn-tuệ-địa trong tâm Kim-Cương; như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới
cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.
Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cương quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn
sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà
thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.
A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị
trong đường Bồ-đề chân-thật. Làm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán
cách khác, gọi là tà-quán".
CHỈ-DẠY TÊN KINH
Khi bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, ở trong đại-chúng, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Nên gọi kinh
nầy là gì? Tôi và chúng-sinh phải phụng-trì thế nào?"
Phật bảo ngài
Văn-thù-sư-lỵ:
Kinh nầy tên là "Đại-Phật-đỉnh-tất-đát-đa
bát-đát-ra, vô-thượng bảo-ấn, thập phương Như-lai thanh-tịnh hải-nhãn".
Cũng gọi tên là "Cứu-hộ
thân-nhân, độ-thoát A-nan cập thử Hội-trung Tính-tỷ-khưu-ni, đắc Bồ-đề-tâm,
nhập biến-tri-hải".
Cũng gọi tên là "Như-lai
mật-nhân, tu-chứng-liễu-nghĩa".
Cũng gọi tên là "Đại-phương-quảng
diệu-liên-hoa-vương, thập phương Phật-mẫu đà-la-ni-chú".
Cũng gọi tên là "Quán-đỉnh
chương-cú, chư Bồ-tát vạn-hạnh Thủ-lăng-nghiêm".
Các ông nên phụng-trì".
ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
Comments
Post a Comment