Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
271. THỊ TỶ ĐA HA RỊ NẨM
視比多訶唎南
JIVITĀ HĀRINYĀ
Tế
tự hàn lâm đại thọ vương
Vô
lượng đống quỷ các bôn mang
Chiến
chiến căng căng xỉ giao kích
Tham
tâm nghiệp báo dục phát cuồng.
祭祀寒林大樹王
無量凍鬼各奔忙
戰戰兢兢齒交擊
貪心業報欲發狂
'Sacrifice,' ‘cold forest' and ‘giant king of trees':
Innumerable freezing ghosts race about madly.
Shivering, their teeth clatter against each other.
Insanity is the karmic result of greed.
Nếu muốn cho tất cả loài
Quỷ ăn đồ cúng được no đủ, nên thường tụng câu chú nầy.
THÀNH "ĐỊA NGỤC"
DO MƯỜI TẬP-NHÂN VÀ SÁU GIAO-BÁO
"A-nan, những điều như thế, đều do nghiệp-báo các chúng-sinh kia, tự chiêu-cảm lấy, như gây mười Tập-nhân, thì chịu sáu Giao-báo.
"Thế nào là mười Tập-nhân?
A-nan, một là, tập-quán dâm-dục, giao-tiếp cùng nhau, phát-sinh cọ-xát lẫn nhau; cọ-xát mãi không thôi, như thế, nên trong ấy có ngọn lửa-hồng lớn nổi lên; ví-như, có người lấy hai bàn tay cọ-xát lẫn nhau, thì cảm-giác nóng hiện ra. Hai cái tập-khí đốt nhau, nên có những việc giường sắt, trụ đồng. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét việc dâm-dục, đồng gọi là lửa-dục; Bồ-tát đối với dâm-dục, tránh như hầm-lửa.
Hai, là tập-quán tham-lam, so-đo hơn thiệt, phát-sinh hấp-thụ lẫn nhau; hấp-thụ ôm-ấp mãi không thôi, như thế, nên chứa hơi-lạnh bên trong thành giá-cứng, làm cho nẻ-nứt; ví-như, có người hút hơi gió vào, thì có cảm-xúc lạnh. Hai tập-khí lấn nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la, thanh-liên, xích-liên, bạch-liên, hàn-băng, vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét việc tham-cầu quá nhiều, đồng gọi là nước tham; Bồ-tát đối với lòng tham, tránh như biển-độc.
Ba, là tập-quán ngã-mạn, lấn-lướt lẫn nhau, phát-sinh ỷ-thế với nhau. Giong-ruổi không thôi, như thế, nên có sự bôn-ba, sôi-nổi, chứa lại thành nước; ví-như, có người miệng lưỡi tự chép, làm cho nước-bọt chảy ra. Hai tập-khí chọi nhau, nên có các việc sông huyết, sông tro, cát-nóng, biển-độc, bắt uống nước đồng-chảy vân vân... Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai mười phương nhận-xét lòng ngã-mạn, đồng gọi là uống nước si-mê; Bồ-tát đối-với ngã-mạn, tránh như vực-thẳm lớn.
Bốn, là tập-quán nóng-giận, xung-đột cùng nhau, phát-sinh chống-đối lẫn nhau; chống-đối mãi không thôi, tâm nổi nóng, phát ra lửa, nấu cái khí thành kim-thuộc, vì thế, nên có núi dao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe gươm, những búa, những vớt, những thương, những cưa; ví-như, có người bị hàm-oan, thì sát-khí nổi lên. Hai tập-khí đập nhau, nên có các sự thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự nóng-giận, đồng gọi là dao-gươm bén; Bồ-tát đối với lòng nóng-giận, tránh như tránh chém-giết.
Năm, là tập-quán giả-dối, dụ-dỗ theo nhau, phát-sinh lôi-kéo lẫn nhau; dẫn-dắt mãi không thôi, như thế, nên có giây, cây, thòng-lọng, căng-nọc; ví-như, nước thấm ruộng thì cỏ-cây lớn lên. Hai tập-khí kéo-nhau, nên có các sự gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, qua, bổng. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự giả-dối, đồng gọi là sàm-tặc; Bồ-tát đối với sự gian-dối, sợ như beo-sói.
Sáu, là tập-quán lừa-gạt, lừa-dối với nhau, phát-sinh phỉnh-gạt lẫn nhau; phỉnh-gạt mãi không thôi, phát-tâm gây điều gian-dối; như thế, nên có bụi, đất, đại-tiện, tiểu-tiện, các đồ nhơ-nhớp không sạch; như bụi theo gió, không thấy lẫn nhau. Hai tập-khí dìm nhau, nên có những sự chìm-đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi-lăn. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự lừa-gạt, đồng gọi là cướp-giết; Bồ-tát đối với sự lừa-gạt, như giẫm rắn-độc.
Bảy, là tập-quán thù-oán, hiềm-khích lẫn nhau, phát-sinh ôm-ấp lòng giận, như thế, nên có quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, bình-đựng, đãy-bọc, như người hiểm-độc ôm-ấp điều dữ. Hai tập-khí nuốt nhau, nên có những sự ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo, ôm. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự thù-oán, gọi là quỷ Vi-hại; Bồ-tát đối với sự thù-oán, như uống ruợu-độc.
Tám, là tập-quán ác-kiến, tranh-cãi với nhau, như ngã-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ và các nghiệp tà-ngộ, phát-sinh chống-trái lẫn nhau; như thế, nên có quan-lại chứng-thực, nắm-giữ giấy-tờ, đông như người đi đường, qua lại gặp nhau. Hai tập-khí giao nhau, nên có các sự khám-hỏi, mưu-mẹo, khảo-tấn, đòi-hỏi, gạn-xét, cứu-tra cho rõ và những đồng-tử thiện-ác, tay cầm sổ-sách, biện-bạch cãi-vã. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét ác-kiến, đồng gọi là kiến-khanh; Bồ-tát đối với những thiên-chấp hư-vọng, như đứng bên hố-độc.
Chín, là tập-quán vu-vạ, làm hại cho nhau, phát-sinh sự vu-báng, như thế, nên có hợp-sơn, hợp-thạch, cối-nghiền, cối-xay; ví-như, kẻ sàm-tặc, áp-bức vu-oan người lương-thiện. Hai tập-khí bài xích lẫn nhau, nên có các sự áp-giải, đè-đập, ép-huyết, tuốt-mình. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương, nhận-xét sự vu-vạ, đồng gọi là sàm-hổ; Bồ-tát đối với sự vu-vạ, như bị sấm-sét.
Mười, là tập-quán kiện-thưa, cãi-vã lẫn nhau, phát-sinh sự che-đậy; như thế, nên có gương soi, đuốc chiếu, như giữa ban ngày, không giấu bóng được. Hai tập-khí phô-bày lẫn nhau, nên có ác-hữu, nghiệp kính, hỏa-châu phơi-bày nghiệp xưa đối-nghiệm các việc. Vậy nên, tất-cả các đức Như-lai thập phương nhận-xét sự che-đậy, gọi là giặc-ngầm; Bồ-tát đối với sự che-đậy, như đội núi cao, lội trong biển lớn.
"Thế nào là sáu Giao-báo?
A-nan, tất-cả chúng-sinh, sáu thức gây nghiệp, nên ác-báo chuốc-lấy, đều từ sáu căn mà ra."
"Các ác-báo từ sáu căn ra như thế nào?
Một, là giao-báo về thấy, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-thấy ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết thấy lửa-hồng đầy khắp 10 phương; thần-thức người chết bay rơi theo khói vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là thấy sáng, thì khắp thấy nhiều thứ vật-dữ, sinh ra khiếp-sợ vô-cùng; hai là thấy tối, lặng vậy không thấy gì sinh ra hoảng-hốt vô-hạn. Lửa thấy như thế, đốt cái nghe, thì có thể làm vạc-dầu sôi, làm nước đồng-chảy; đốt hơi-thở, thì có thể làm khói-đen, lửa đỏ; đốt cái nếm, thì có thể làm viên tròn nung-đỏ, làm cơm-sắt; đốt cảm-xúc, thì có thể làm tro-nóng, lò-than; đốt tâm-ý, thì có thể sinh ra sao-lửa rưới khắp, làm rung-động cả cõi hư-không.
Hai, là giao-báo về nghe, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-nghe ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy sóng cuộn chìm-ngập trời đất; thần-thức người chết, sa xuống theo dòng vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là nghe tỏ, nghe các thứ ồn-ào, tinh-thần rối-loạn; hai là điếc hẳn, lặng-lẽ, không nghe gì, thức-thần chìm-lịm. Sóng nghe như thế, rót vào cái nghe, thì có thể làm trách, làm hỏi; rót vào cái thấy, thì có thể làm sấm, làm thét, làm hơi-độc-dữ; rót vào hơi thở, thì có thể làm mưa, làm mù, rưới các sâu-độc đầy khắp thân-thể; rót vào các vị, thì có thể làm mủ, làm huyết, các thứ nhơ-nhớp; rót vào cảm-xúc, thì có thể làm con súc, làm con quỷ, làm phân, làm nước-tiểu; rót vào ý-nghĩ, thì có thể làm chớp, làm mưa-đá, đập nát tâm-thức.
Ba, là giao-báo về ngửi, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ngửi ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy hơi-độc đầy-nhẩy xa gần; thần-thức người chết, từ dưới đất trổi lên, vào ngục Vô-gián, phát-hiện ra hai tướng: Một là ngửi thông, bị các hơi dữ xông tột-bực, làm cho tâm rối-loạn; hai là ngạt mũi, hơi-thở ngạt không thông, nằm chết-giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế, xông vào hơi-thở, thì có thể làm thông, làm ngạt; xông vào cái thấy, thì có thể làm lửa, làm đuốc; xông vào cái nghe, thì có thể làm chìm-ngập, làm chết-đuối, làm nước-lớn, làm nước-sôi; xông vào cái vị, thì có thể làm đói, làm ngấy; xông vào cái cảm-xúc, thì có thể làm xấu, làm nát, làm núi-thịt lớn có trăm ngàn con mắt, hút-ăn không cùng; xông vào ý-nghĩ, thì có thể làm tro, làm chướng-khí, làm gạch-đá bay lên đánh-nát thân-thể.
Bốn, là giao-báo về vị, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-vị ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy lưới-sắt nung-đỏ che khắp thế-giới; thần-thức người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo ngược đầu xuống, vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng : Một là nuốt vào, thì kết-thành giá-lạnh, làm nứt-nẻ thân-thể; hai là mửa ra, thì bay lên thành lửa-hồng, đốt-rụi xương-tủy. Vị-báo như thế, qua cái nếm, thì có thể làm nhận, làm chịu; qua cái thấy, thì có thể làm các thứ kim-thạch đốt-cháy; qua cái nghe, thì có thể làm binh-khí sắc-bén; qua hơi-thở, thì có thể làm lồng-sắt lớn che khắp cõi-nước; qua cảm-xúc, thì có thể làm cung, làm tên, làm mỏ, làm bắn; qua ý-nghĩ, thì có thể làm sắt-nóng bay, từ trên không rưới xuống.
Năm, là giao-báo về xúc, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-xúc ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết, thấy núi lớn bốn mặt hợp lại, không còn đường ra; thần-thức người chết thấy thành-sắt lớn, rắn-lửa, chó lửa, hùm-sói, sư-tử, ngục-tốt đầu trâu, la-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào cửa thành, hướng về ngục Vô-gián, phát ra hai tướng; Một là hợp-xúc, thì núi kẹp ép mình, xương-thịt nát ra máu; hai là ly-xúc, thì dao gươm chạm vào mình, tim gan cắt-xẻ. Xúc-báo như vậy, qua cái xúc, thì có thể làm đạo, làm quán, làm sảnh, làm án; qua cái thấy, thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe, thì có thể làm đập, làm đánh, làm đâm, làm bắn; qua hơi-thở, thì có thể làm trùm, làm đẫy, làm tra, làm trói; qua cái nếm, thì có thể làm cày, làm kiềm, làm chém, làm chặt; qua ý-nghĩ, thì có thể làm rơi, làm bay làm nấu, làm nướng.
Sáu, là giao-báo về ý-nghĩ, chiêu-cảm ác-quả. Khi nghiệp-ý ấy giao-báo, thì lúc lâm-chung, trước hết thấy gió-dữ thổi-nát cõi nước, thần-thức người chết bị thổi lên trên không xoay-rơi theo gió, sa vào ngục Vô-gián, phát ra hai tướng: Một là không biết, tột mê, thì hoang-mang, ruổi-chạy không thôi; hai là không mê, hay-biết, thì khổ, bị đốt-cháy không cùng, đau-buốt không chịu nổi. Ý-báo như thế, kết vào ý-nghĩ, thì có thể làm phương, làm sở; kết vào cái thấy, có thể làm gương-soi, làm chứng-cứ; kết vào cái nghe, thì có thể làm đại-hợp-thạch, làm giá, làm sương, làm đất, làm mù; kết vào hơi-thở, thì có thể làm xe-lửa lớn, làm thuyền lửa, cũi-lửa; kết vào cái nếm, thì có thể làm kêu-la to, làm ăn-năn, làm khóc-lóc; kết vào cái cảm-xúc, thì có thể làm lớn, làm nhỏ, làm cho một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng, làm ngửa.
"A-nan, thế gọi là 10 nhân và 6 quả của điạ-ngục, nhân-quả ấy đều do mê-vọng của chúng-sinh tạo ra.
Nếu các chúng-sinh, sáu căn đồng-tạo nghiệp-dữ, thì vào ngục A-tỳ, chịu khổ vô-cùng trong vô-lượng kiếp; nếu từng mỗi căn tạo ra và nghiệp-dữ đã làm gồm cả cảnh và căn thì người ấy vào 8 ngục Vô-gián. Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào Thập-bát-địa-ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm một việc sát, hoặc một việc đạo, thì người ấy vào trong Tam-thập-lục-điạ-ngục; chỉ có một căn, riêng làm một việc, thì người ấy vào Nhất-bách-bát-địa-ngục.
Do những chúng-sinh ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ đồng-phận trong giới ấy; đó đều do vọng-tưởng phát-sinh ra, không phải bản-lai tự có.
(BẢN LAI TẤT CẢ CHÚNG SINH, THẬT VỐN CHƠN TÁNH THANH TỊNH, KHI "VỌNG" KHI "CHƠN" CÓ CÙNG 1 CHƠN TÂM.)
Đời Diêu Tần, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn-văn ra Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
Tin rằng tất cả các pháp đều do Tâm-thể “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC”của mình tạo ra. Từ ba đời mười phương chư Phật nhẫn đến tứ thánh, lục phàm, đều do cái Tâm-thể lưu xuất và biến hiện.
Tin rằng cõi Cực-Lạc cũng chỉ do Tâm-thể thanh tịnh của chúng sanh tạo ra, cùng tương ứng với Bổn Nguyện Vĩ Đại của Phật, Bồ-Tát, Thánh-chúng. Và tinh rằng đức A-Di-Đà chỉ là do sự niệm tưởng danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật phát khởi lên.
Tin rằng mỗi mỗi chúng sanh đều có đủ năng lực lãnh thọ giáo pháp Như-Lai, bất cứ hữu tình nào cũng có năng lực hoàn thành địa vị Nhứt-thiết Chủng-trí như chư Phật.
Tin rằng bản nguyện của Phật A-Di-Đà là chân thật, rốt ráo, là tối thắng. Và Ngài không hề bỏ sót một chúng sanh nào cả, dù kẻ ấy phạm vào ngũ nghịch, thập ác ...
Tin rằng pháp niệm Phật vãng sanh là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người, vì rời môn tu này thì mọi người, mọi loài không thể giải thoát, nếu phế bỏ môn tu này thì chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào khác để tế độ hết thảy hữu tình đúng như bản thệ, đúng như bản nguyện.
Diệu-Nguyệt phải phát khởi tín tâm như vậy mà niệm Phật.
LUẬN CHỦ TÔNG-MẬT SA MÔN, CHÙA QUÊ PHONG,
XUẤT THÂN ĐỜI ĐƯỜNG, BÊN TÀU.
THIÊN THỨ TƯ
HỘI THÔNG BỔN MẠT
(GOM LẠI SUỐT THÔNG TỪ GỐC TỚI NGỌN)
CHÂN-TÁNH TUY VI THÂN BỔN, SANH KHỞI CÁI HỮU NHÂN DO, BẤT KHẢ VÔ ĐOAN, HỐT THÀNH THÂN-TƯỚNG.
CHÂN-TÁNH MẶC DÙ LÀM GỐC CHO THÂN-TƯỚNG, NHƯNG VỀ SỰ SANH KHỞI RA THÂN-TƯỚNG ẮT CÓ “NGUYÊN-DO”, CHỨ CHẲNG PHẢI KHÔNG MANH MỐI GÌ HẾT, “TỰ NHIÊN” THÀNH RA “THÂN-TƯỚNG” ĐÂU ?
ĐÃN DUYÊN TIỀN TÔNG VỊ LIỂU, SỞ DĨ TIẾT TIẾT XÍCH CHI.
SỞ DĨ CÁC “THIÊN” TRƯỚC BỊ QUỞ TRÁCH, CHỈ VÌ CHƯA RÕ “NGUYÊN-DO” CÓ ĐƯỢC “THÂN” NGƯỜI.
KIM TƯƠNG BỔN-MẠT HỘI THÔNG, NÃI CHÍ NHO-ĐẠO DIỆC THỊ.
NAY ĐEM GOM LẠI SUỐT THÔNG TỪ GỐC TỚI NGỌN, CHO ĐẾN ĐẠO-NHO, ĐẠO-TIÊN CŨNG NHƯ VẬY.
NHỨT THỪA HIỂN-TÁNH-GIÁO
GIÁO-PHÁP DẠY “NHỨT-THỪA” CỦA KINH HOA-NGHIÊM, LẤY “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC” LÀM NGUỒN-GỐC CHÂN-THẬT CÓ ĐƯỢC THÂN-NGƯỜI
Chí tâm sám-hối :
Ðệ tử _____ và chúng-sanh trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô-minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng biết “CHÂN-TÂM BỔN-GIÁC” , vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng :
“Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo thanh-tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với chúng-sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân an-lành niệm chánh vững-vàng, xem nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ :
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo.
THÀNH "QỦY"
"Lại nữa, A-nan, các chúng-sinh đó, nếu không phải gây tội chê-phá luật-nghi, phạm Bồ-tát-giới, hủy-báng Niết-bàn của Phật, mà chỉ phạm những nghiệp phức-tạp khác nhau, thì sau khi bị đốt cháy nhiều kiếp, đền tội hết rồi, thì chịu những hình quỷ.
Nếu nơi bản-nhân, do tham vật mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vật thành-hình gọi là Quái-quỷ; do tham sắc mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp gió thành-hình, gọi là Bạt-quỷ; do tham dối-trá mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp giống súc thành-hình, gọi là Mỵ-quỷ; do tham nóng-giận mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con sâu thành-hình, gọi là Cổ-độc-quỷ; do tham thù-oán mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vận-suy kẻ-thù mà thành-hình, gọi là Lệ-quỷ; do tham ngã-mạn mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp khí thành-hình, gọi là Ngạ-quỷ; do tham lừa-gạt mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp u-ẩn thành-hình, gọi là Áp-quỷ; do tham ác-kiến mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp tinh-hoa thành-hình, gọi là Vọng-lượng-quỷ; do tham vu-vạ mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp linh-hiển thành-hình, gọi là Dịch-sử-quỷ; do tham bè-phái che-giấu mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con người thành-hình, gọi là Truyền-tống-quỷ.
A-nan, những người đó đều vì thuần-tình phải đọa-lạc, khi lửa-nghiệp đốt-sạch rồi, thì lên làm quỷ; như thế đều do cái nghiệp vọng-tưởng tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ-đề, thì nơi tính Diệu-viên-minh, vốn không có gì.
Comments
Post a Comment