Shurangama Mantra with Verses and Commentary
by Venerable Tripitaka Master Hsuan Hua
332. NAN ĐÀ KÊ SA RA
難陀雞沙囉
NANDIKESVARA
Hoan
Hỷ Kim Cang bảo trượng kình
Hảo
thanh điểu xướng hòa nhã âm
Càn
Thát Bà Vương giai quyến thuộc
Tinh
cần hành mãn liễu tử sanh.
歡喜金剛寶杖擎
好聲鳥唱和雅音
乾闥婆王偕眷屬
精勤行滿了死生
Tụng câu chú nầy, thì vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm
nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên HOAN HỶ
TINH CẦN tu hành vì thoát sanh tử.
PHÓNG HÀO QUANG, KHẮP THỊ HIỆN
Ông A-nan đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ khi xuất-gia, tôi ỷ-lại nơi lòng thương-yêu của Phật; vì cầu tuệ đa-văn, chưa chứng quả vô-vi, nên bị tà-thuật Phạm-thiên kia bắt-buộc; tâm tuy rõ-ràng, nhưng sức không tự-do, nhờ gặp ngài Văn-thù, khiến cho tôi được giải-thoát. Tuy tôi thầm nhờ sức của thần-chú Phật-đỉnh Như-lai, nhưng chính mình còn chưa được nghe chú ấy, xin nguyện đức Đại-từ tuyên-nói lại cho, thương-xót cứu-giúp các hàng tu-hành trong Hội nầy và những người đời sau, còn trong luân-hồi, được nhờ mật-âm của Phật, mà thân-ý được giải-thoát". Lúc bấy giờ, tất-cả đại-chúng trong Hội thảy đều làm lễ, chờ nghe những câu chú bí-mật của Như-lai.
( Lúc đó, đức Thế-tôn, từ nơi nhục-kế phóng ra trăm thứ hào-quang báu, trong hào-quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa-thân Như-lai ngồi trong hoa sen, trên đình phóng ra mười đạo hào-quang bách-bảo; trong mỗi mỗi đạo hào-quang, đều hiện ra những vị Kim-cương mật-tích, số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, xách núi, cầm xử, khắp cõi hư-không. Đại-chúng ngửa lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật thương-xót che-chở, một tâm nghe đức Phóng-quang Như-lai, nơi Vô-kiến-đỉnh-tướng của Phật, tuyên-nói thần-chú : )
Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung. Ðảnh phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện, thập Hằng Hà sa, Kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, Ðại chúng ngưỡng quán, úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú :
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ
Dao Tần,
Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La Thập dịch
Việt Dịch : HT. Trí-Tịnh
TÍN
Nói về “Y BÁO TRANG NGHIÊM” và “CHÁNH BÁO VÔ LƯỢNG THÙ THẮNG”, để cho chúng-sanh “TÍN” rằng là cõi nước “CÓ THẬT”, cũng như cõi “TA BÀ” của chúng ta đang sống đây vậy.
Y BÁO TRANG NGHIÊM
Xá Lợi Phất
! Cõi đó vì sao tên là cõi Cực Lạc?
Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui,
nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất!
lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng
cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực
Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy châu báu, trong ao đầy dẫn nước
đủ tám công đức, đáy thuần dùng cát vàng trải làm đất.
Vàng bạc,
lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có
lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu,
mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng
thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu
nhiệm thơm tho trong sạch.
Xá Lợi Phất!
Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của Đức Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng
vàng ròng, ngày đêm sáo trời rưới hoa trời mạn đà la.
Chúng sanh
trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãi hoa đựng những hoa tốt đem
cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc
ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất!
Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Lài nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp là
thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh- võ, Xá- lợi, Ca- lăng- tần- già,
Cọng- mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hoà nhã.
Tiếng chim
đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo
phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá- Lợi-
Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?
Vì cõi của Đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá- Lợi- Phất! Cõi của Đức Phật đó
tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do
Đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hoá làm ra đấy
thôi.
Xá- Lợi- Phất! Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây
báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ
nhạc đồng một lúc hoà chung.
Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá- Lợi- Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
CHÁNH BÁO VÔ LƯỢNG THÙ THẮNG
Xá- Lợi-
Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi- Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước
trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá- Lợi-
Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ
kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá- Lợi-
Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.
Xá- Lợi- Phất! Lại Đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A
La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như
thế.
Xá- Lợi-
Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện Thiển Thích
Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng thuật
Hương Thần là ai?
Ðó chính là Càn Thát Bà trong Bát Bộ Quỷ Thần, trên đầu có một cái sừng.
Kinh văn:
Bấy giờ, bốn vị Thiên Vương cai quản
bốn phương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại
nguyện như thế, vì sao đến nay vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ
nguyện nữa? Cúi xin Ðức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ."
Lược giảng:
Bấy giờ, lúc Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương cung kính lễ Phật và lui ra ngồi
sang một bên rồi, thì bốn vị Thiên Vương coi bốn phương đồng từ chỗ
ngồi đứng dậy,
Bốn vị Thiên Vương của bốn phương đều
cư ngụ ở lưng chừng núi Tu Di; cung điện có thành trì bằng thất bảo—vàng, bạc,
lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não—bao quanh. Thành cao bốn vạn hai ngàn
do-tuần, chung quanh có bảy lớp hàng cây, bảy lớp lưới giăng (la võng), bảy lớp
câu-lơn bao bọc, vô cùng trang nghiêm.
"Tứ Phương Thiên Vương" tức
là bốn vị Thiên Vương trấn giữ ở bốn phương—Ðông Phương Thiên Vương, Nam Phương
Thiên Vương, Bắc Phương Thiên Vương và Tây Phương Thiên Vương.
1) Ðông Phương Thiên Vương. Theo tiếng
Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Ðề Ða La Tra; Trung Hoa dịch là Trì Quốc.
"Trì" tức là "trì hộ"—vị Thiên Vương này gìn giữ và bảo hộ
quốc gia cùng tất cả chúng sanh. Ðông Phương Thiên Vương có chín mươi chín
người con trai và đều được gọi là Nhân Ðà La.
Trong các quỷ thần do Ðông Phương
Thiên Vương thống lãnh, thì có một số là Hương Thần (thần thích hương thơm), và
một số là Xú Thần (thần hôi thúi). Hương Thần là ai? Ðó chính
là Càn Thát Bà trong Bát Bộ Quỷ Thần, trên đầu có một cái sừng. Càn Thát Bà rất
thích ngửi hương thơm, hễ đánh hơi thấy nơi nào có hương thơm là liền chạy về
hướng đó. Ngọc Ðế, tức là Nhân Ðà La Vương, có một loại hương gọi là hương
chiên-đàn; khi nào đốt hương này lên, Càn Thát Bà ngửi được thì liền đến và
khảy đàn tấu nhạc cho Ngọc Ðế nghe. Bởi Ngọc Ðế vẫn còn ở trong Lục Dục Thiên,
chưa ra khỏi cảnh giới Ngũ Trần, cho nên còn thích nghe Càn Thát Bà tấu nhạc.
Vậy, Càn Thát Bà là Nhạc Thần của Ngọc Ðế, mà cũng chính là Hương Thần.
Trì Quốc Thiên Vương còn thống lãnh cả
Xú Thần (thần hôi thúi). Xú Thần này có tên là Phú Ðơn Na, đi đến đâu là hôi
hám thối tha đến đó. Ðây cũng chính là vị Phú Ðơn Na được nhắc tới trong Chú
Lăng Nghiêm. Bản lãnh cùng thần thông của Xú Thần chính là phóng ra mùi
hôi, và hễ đến nơi nào thì nơi ấy liền có mùi hôi thối nồng nặc!
2) Nam Phương Thiên Vương. Theo tiếng
Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Ly; Trung Hoa dịch là Tăng Trưởng—vị
Thiên Vương này có thể làm cho thiện căn của chúng sanh được tăng trưởng. Nam
Phương Thiên Vương cũng có chín mươi chín người con trai, và cũng đều gọi là
Nhân Ðà La. Bốn vị Thiên Vương này, mỗi vị đều có chín mươi chín (99) người con
trai, và đều được gọi là Nhân Ðà La; vì vậy, cả ba trăm chín mươi sáu (396) vị
đều có cùng một tên gọi giống nhau.
Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương
cũng cai quản, thống lãnh các quỷ thần; trong đó có loài Viễn Quỷ (quỷ xa) và
Cận Quỷ (quỷ gần). Vì sao gọi là Viễn Quỷ? Vì loài quỷ này thường tránh xa loài
người. Vì sao gọi là Cận Quỷ? Vì loài quỷ này thích làm tổ tiên của người ta,
hễ đến nhà người nào thì làm tổ tiên của người đó, cho nên gọi là Cận Quỷ.
Viễn Quỷ có tên gọi là gì? Trong Chú
Lăng Nghiêm, Viễn Quỷ được gọi là Cưu Bàn Trà. Ðúng ra, những chữ này phải
đọc là "Cưu Bàn Ðồ," nhưng hiện nay những người tụng Chú đều đọc là
"Cưu Bàn Trà"—có lẽ Cưu Bàn Ðồ cũng biết mình bị đổi tên rồi, do vậy
quý vị có đọc là "Cưu Bàn Trà" thì cũng được linh ứng như nhau; cho
nên, tên gọi thì không có gì là nhất định cả.
Tại sao "Cưu Bàn Ðồ" lại bị
đọc nhầm thành "Cưu Bàn Trà"? Vì người ta không nhìn cho rõ chữ
"đồ"! Chữ "đồ" và chữ "trà" chỉ khác nhau ở một
nét ngang, và hai chữ này cũng chỉ hơn kém nhau một nét ngang ấy mà thôi—phần
dưới của chữ "trà" là chữ "mộc," còn phần dưới của chữ
"đồ" là chữ "mạt." Bởi chỉ sai khác nhau một nét ngang nhỏ,
nên người ta lơ đễnh mà lầm lẫn chữ "đồ" ra chữ "trà." Thế
nhưng, khi nghe ai gọi "Cưu Bàn Trà" thì Cưu Bàn Ðồ cũng biết đó là
người ta gọi mình.
Hình dạng của Cưu Bàn Trà như thế nào?
Cưu Bàn Trà hình thù trông như cái vại hay cái chum lớn tròn tròn, không có
đầu, cũng chẳng có chân. Vì loài quỷ này thường tránh xa, không thích ở gần con
người, nên gọi là Viễn Quỷ.
Loài Cận Quỷ được gọi là Bệ Lệ Ða, và
cũng có được nhắc đến trong Chú Lăng Nghiêm. Ở Trung Quốc, mỗi gia
đình đều có thờ cúng bài vị tổ tiên, và loài quỷ này thường lân la tìm đến làm
tổ tiên cho từng nhà. Bởi loài quỷ này thích tiếp xúc, thân cận loài người nên được
gọi là "Cận Quỷ."
3) Tây Phương Thiên Vương. Theo tiếng
Phạn, tên của vị Thiên Vương này là Tỳ Lưu Bạc Xoa; Trung Hoa dịch là Tạp Ngữ,
ngụ ý rằng vị Thiên Vương này biết nói đủ các thứ tiếng, thông thạo tất cả ngôn
ngữ của mọi quốc gia.
Tây Phương Thiên Vương còn được gọi là
Quảng Mục Thiên Vương và cũng thống lãnh một số quỷ; đó là loài quỷ nào? Chính
là loài quỷ mà trong Chú Lăng Nghiêm gọi là Tỳ Xá Ðồ và Trung
Hoa dịch là Ðạm Tinh Khí Quỷ, tức là loài quỷ chuyên ăn tinh khí. "Tỳ Xá
Ðồ" còn được dịch là Ðiên Cuồng Quỷ, bởi loài quỷ này có thể làm cho người
ta sanh bệnh điên cuồng, bị phát điên phát cuồng. Loài quỷ này lại chuyên ăn
tinh khí của con người—chúng đến những nơi xảy ra hành vi tánh dục nam nữ để ăn
thứ tinh khí bất tịnh ấy. Một khi quỷ Tỳ Xá Ðồ khiến cho người nào mắc bệnh,
thì người đó không còn hay biết gì cả, phải vào bệnh viện tâm thần để điều trị.
Tuy nhiên, những người bị loài quỷ này hãm hại, dù có ở bệnh viện tâm thần thì
cũng không dễ gì bình phục được.
Tây Phương Thiên Vương còn thống lãnh
cả rồng độc (độc long). Loài rồng có nọc độc này, hễ mắt chúng vừa nhác thấy
người nào thì người đó liền bị trúng độc của chúng ngay tức khắc. Chẳng những
thế, nếu quý vị nghe tiếng của chúng, ngửi thấy mùi của chúng hoặc tiếp xúc,
đụng chạm vào chúng, thì cũng đều bị trúng độc cả.
Như vậy, Tây Phương Thiên Vương thống
lãnh, cai quản hai loại quỷ thần là quỷ Tỳ Xá Ðồ và loài rồng độc.
4) Bắc Phương Thiên Vương. Trong bốn
vị Thiên Vương thì Bắc Phương Thiên Vương là thủ lãnh; cả ba vị Thiên Vương kia
đều phải chịu sự chỉ huy của vị thủ lãnh này.
Bắc Phương Thiên Vương cũng cai quản
quỷ thần; đó là loài quỷ thần nào? Ðó là hai loài quỷ—quỷ Dạ Xoa và quỷ La Sát.
Dạ Xoa có rất nhiều loại—có Dạ Xoa đi dưới đất, có Dạ Xoa du hành trên không
trung, có Dạ Xoa ở trên trời... Dạ Xoa còn được gọi là quỷ Tiệp Tật, tức là
loài quỷ chạy nhanh, bởi chúng có thể chạy với một tốc độ xấp xỉ tốc độ của ánh
sáng. Quỷ La Sát còn được gọi là quỷ Khả Bố (đáng sợ), vì chúng rất tàn ác và
có hình thù trông rất đáng sợ.
Bốn vị Thiên Vương cai quản các quỷ
thần như thế ở thế gian, và đến lúc cần họp hội nghị thì họ đều quy tụ ở chỗ
của Bắc Phương Thiên Vương. Bắc Phương Thiên Vương có tên là Tỳ Sa Môn, Trung
Hoa dịch là Ða Văn, vì vị Thiên Vương này có kiến thức rất uyên thâm, hiểu
nhiều biết rộng. Cũng chính vì thế mà ba vị Thiên Vương kia đều răm rắp tuân
theo hiệu lệnh cùng mọi sự sai bảo của Bắc Phương Thiên Vương.
Lúc bấy giờ, bốn vị Thiên Vương, vốn
đang cùng đại chúng nghe Kinh Ðịa Tạng, đều từ chỗ ngồi đứng
dậy, cung kính chắp tay mà bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ
Tát Ðịa Tạng từ kiếp lâu xa đến nay đã phát đại nguyện như thế, vì sao đến nay
vẫn độ chưa hết, lại còn phát quảng đại thệ nguyện nữa? Vì sao đến nay
Bồ Tát Ðịa Tạng vẫn còn đi độ chúng sanh, vẫn chưa hoàn thành viên mãn hạnh
nguyện của mình, lại còn phát lời thệ nguyện rộng lớn nữa? Cúi xin Ðức
Thế Tôn dạy cho chúng con rõ. Chúng con kính xin Ðức Phật hãy vì tất
cả đại chúng trong Pháp Hội hiện nay mà giảng rõ điều này."
Thất Phật Ra Da [32]
BỔN-THÂN NGÀI THÍCH-LỊCH BỒ-TÁT
Hàng phục chư ma chánh pháp hưng
Tích lịch thiểm điện quỷ thần kinh
Vũ trụ trừng thanh yêu phân tức
Huệ nhật cao chiếu khánh hòa bình.
Nhật-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Comments
Post a Comment